- Mat Ma Phu Thuy All Souls Tap 1 Deborah Harkness Chuong 14

Tùy Chỉnh

Matthew đang đợi tôi ở chòi gác vào đúng bảy giờ rưỡi, hoàn hảo không tỳ vết như thường lệ với một sự kết hợp đơn sắc của màu lông bồ câu và màu than, mái tóc đen của anh được vuốt ngược ra sau từ đường ngôi rẽ không đều. Anh chàng kiên nhẫn trụ vững trước sự kiểm duyệt của người gác cổng cuối tuần - ông ta gửi tới tôi một cái gật đầu chào và khoan thai nói, "Gặp lại cô sau nhé, tiến sĩ Bishop."

"Em làm người ta phải lộ ra cả bản năng che chở bảo vệ đấy," Matthew lầu bầu khi chúng tôi đi qua cổng.

"Chúng ta đi đâu đây?" Chẳng thấy tăm hơi chiếc xe của anh chàng đâu cả.

"Chúng mình sẽ dùng bữa ở trong trường tối nay," anh trả lời, ra hiệu về phía thư viện Bodleian. Tôi đã đoán trước là anh sẽ đưa tôi đến Woodstock, hoặc tới một căn hộ trong mấy khu nhà thời Victoria ở phía Bắc Oxford. Tôi chẳng ngờ rằng anh ấy có thể sống trong trường.

"Ở đại sảnh, chỗ bàn cao á?" Tôi cảm thấy mình ăn mặc xuềnh xoàng kinh khủng và đưa tay kéo viền cái áo lụa đen đang mặc xuống.

Mattew ngửa đầu ra sau phá lên cười. "Anh tránh ở sảnh lớn bất cứ khi nào có thể chứ. Và anh chắc chắn sẽ không đưa em tới đó để ngồi và chỗ trống bên chiếc Bàn Tròn[17], bị soi mói dò xét bởi các ủy viên giám đốc đâu."

[17. Trong huyền thại về vua Arthur có câu chuyện vua Arthur cử các hiệp sỹ Bàn Tròn đi tìm Chén Thánh. Phù thủy Merlin (quân sư của Arthur) đã đánh dấu một chỗ ngồi trống bên chiếc Bàn Tròn, và hiệp sỹ nào ngồi vào chỗ đó sẽ phải lãnh sứ mệnh lên đường tìm Chén Thánh. Merlin đã giữ gìn chỗ ngồi trống đó rất nghiêm ngặt để chờ ngày vị hiệp sỹ ấy thành công trở về.]

Chúng tôi vòng qua góc rẽ và hướng về phía Radcliffe Camera. Khi đi ngang qua lối vào trường Hertford mà không hề dừng lại, tôi đặt tay mình lên cánh tay anh. Chỉ có một trường chuyên ngành ở Oxford là khét tiếng bởi sự chú trọng khắt khe và độc đoán đối với các thủ tục lễ tân.

Nó cũng là ngôi trường nổi tiếng với những thành viên xuất sắc.

"Anh không phải là..."

Matthew dừng lại. "Tại sao việc anh thuộc về ngôi trường nào lại là vấn đề quan trọng nhỉ?" Anh quay nhìn nơi khác. "Nếu em thích ở giữa những người khác, dĩ nhiên, anh hiểu mà."

"Em không lo lắng là anh sẽ dùng em cho bữa tối đâu, Matthew. Em chỉ chưa bao giờ đến đây thôi." Đôi cánh cổng có những hình cuộn trang trí công phu canh gác cho ngôi trường như thể nơi đây là Xứ Sở Thần Tiên. Matthew thốt lên một tiếng nôn nóng và cầm lấy tay tôi để ngăn tôi thôi nhìn ngắm hai cánh cổng.

"Chỉ là tập hợp những người ở trong một khu nhà cũ kỹ mà thôi." Câu đáp cụt lủn của anh chẳng làm giảm đi giá trị của cái thực tế anh chính là một trong khoảng hơn bảy mươi ủy viên giám đốc của một ngôi trường chuyên ngành không có sinh viên. "Hơn nữa, chúng ta sẽ tới phòng của anh."

Chúng tôi vẫn duy trì khoảng cánh, cứ mỗi bước chân Matthew lại tỏ ra thư thái dễ chịu hơn trong bóng tối như thể đang đồng hành với một cố nhân. Chúng tôi đi xuyên qua một cánh cửa gỗ thấp là nơi ngăn công chúng ở lại bên ngoài ranh giới yên tĩnh của ngôi trường.

Chẳng có ai ở trạm gác ngoại trừ người gác cửa, không có sinh viên sắp tốt nghiệp hay đã tốt nghiệp ở những hàng ghế băng trong sân trước. Yên tĩnh và im ắng như thể các thành viên của trường thực sự là "linh hồn của những con người trung thành đã qua đời ở đại học Oxford vậy."

Matthew nhìn xuống tôi với nụ cười bẽn lẽn. "Chào mừng đến với All Souls."

Trường chuyên ngành All Souls là kiệt tác cuối cùng của kiến trúc Gothic, tương tự như đứa con yêu của một cái bánh cưới và một thánh đường, với những đỉnh tháp nhọn lộng gió và các công trình xây dựng bằng đá hết sức tinh xảo. Tôi thở phào khoan khoái, chẳng thể nói gì nhiều - ít nhất là trong lúc này. Nhưng Matthew sẽ có rất nhiều điều để giải thích sau đây.

"Chào buổi tối, James," anh nói với người gác cổng đang nhìn lên vành cặp kính hai tròng và gật đầu chào đón. Matthew giơ một bàn tay lên. Một chiếc chìa khóa cổ đu đưa dưới cái móc da nơi ngón trỏ của anh. "Tôi sẽ ở một lúc thôi."

"Được rồi, giáo sư Clairmont."

Matthew lại cầm lấy tay tôi. "Đi nào. Chúng ta cần tiếp tục chương trình giáo dục của em."

Anh giống như một câu bé tinh quái trong trò chơi săn tìm kho báu, kéo tôi đi. Chúng tôi cúi đầu xuống thấp để đi qua một cánh cửa gãy đã đen sạm đi vì thời gian. Matthew bật đèn. Làn da trắng của anh vụt tách ra khỏi bóng tối, trông đích thực là một ma cà rồng đến từng centimet.

"Thật tốt vì em là phù thủy," tôi chòng ghẹo. "Nhìn anh ở đây đủ khiến một con người sợ chết khiếp."

Ở cuối một nhịp cầu thang, Matthew nhập vào ổ khóa an ninh một dãy số dài, rồi ấn vào chiếc chìa khóa hình ngôi sao. Tôi nghe thấy một tiếng "cách" khe khẽ, và rồi anh kéo một cánh cửa khác mở ra. Mùi nho lên men, mùi thời gian và một thứ gì đó khác mà tôi không thể gọi tên hợp thành một làn sóng ập vào tôi. Bóng tối bị ánh đèn cầu thang xua đi.

"Điều này đi chệnh ra ngoài một thiên tiểu thuyết Gothic rồi đấy. Anh đang đưa em đi đâu đây?"

"Kiên nhẫn nào, Diana. Không còn xa nữa đâu." Kiên nhẫn, than ôi, chẳng phải là điểm mạnh của phụ nữ nhà Bishop.

Matthew với qua sau vai tôi và gạt một cái công tắc khác. Lơ lửng trên mấy sợi dây điện giống những nghệ sĩ đu xà nhào lộn là một chùm bóng đèn cũ kỹ bủa xuống một vùng ánh sáng nhỏ trông giống như khu chuồng ngựa dành cho những chú ngựa con Shetland thu nhỏ.

Tôi nhìn Matthew không chớp mắt, hàng trăm câu hỏi trong ánh mắt tôi.

"Phía sau em đấy," anh vừa nói vừa gật đầu.

Tiến lên trước, tôi nhận ra mùi kỳ lạ kia. Nó là mùi rượu để lâu - giống như trong các quán rượu vào sáng Chủ Nhật. "Rượu vang ư?"

"Rượu vang."

Chúng tôi đi qua hàng tá những giá kệ, những chồng, những sọt nhỏ áp sát vào tường đựng đầy rượu. Mỗi chỗ lại có một tấm bảng đá đen, và một con số chỉ năm được viết nguệch ngoạc bằng phần ở trên đó. Chúng tôi đi lang thang qua những thùng rượu từ Chiến tranh Thế giới Thứ nhất và Thứ hai, những chai rượu mà Florence Nightingale đã đóng vào rương hành lý để dành cho người nhà Crimea. Có cả rượu vang từ năm Bức tường Berlin được dựng lên và năm nó sụp đổ. Vào sâu hơn nữa trong hầm rượu, những con số ghi năm nguệch ngoạc trên các bảng đá đen biến thành các bảng phân loại như "Vang đỏ Cổ" hay "Rượu vang Chính vụ Thành phố cảng."

Rồi chúng tôi tới cuối căn phòng. Một tá cánh cửa nhỏ khóa kín, im lìm, và Matthew mở một trong những cánh cửa ấy. Ở đây không có điện, anh nhặt lên một cây nến và cắm nó chắc chắn vào cái giá nến bằng đồng trước khi thắp sáng.

Bên trong, mọi thứ đều gọn gàng và cổ xưa như chính Matthew, nhưng bị phủ dưới một lớp bụi. Những giá kệ bằng gỗ có những chỗ trống sít sao để giữ cho rượu vang khỏi rơi xuống sàn nhưng cũng có thể lấy ra dễ dàng từng chai một không làm cho toàn bộ cái giá bị sụp đổ. Có những vết bẩn màu đỏ ở cạnh thanh rầm cửa nơi rượu vang phun ra hết năm này qua năm khác. Mùi nho cũ, mùi nút bần đóng chai và mùi nấm mốc vẩn lên đầy trong không khí.

"Chỗ này là của anh?" Tôi nghi ngờ hỏi.

"Phải, nó là của anh. Vài ủy viên giám đốc được có hầm rượu riêng."

"Ở đây anh có thứ gì mà phía ngoài kia không có chứ?" Căn phòng sau lưng tôi chắc hẳn phải có tất cả những chai rượu của mỗi vụ sản xuất trước đây. Cửa hàng rượu vang ngon nhất của Oxford giờ đây dường như quá nghèo nàn và thiếu thốn một cách lố bịch khi so sánh với căn phòng này.

Matthew mỉm cười bí ẩn. "Tất cả các loại."

Anh di chuyển nhanh chóng qua căn phòng nhỏ không cửa sổ, vui vẻ lôi ra mỗi chỗ một chai. Anh đưa cho tôi một chai rượu màu đen, nặng trịch với hình vẽ một cái khiên vàng trên nhãn và một chiếc giỏ lưới ở phía trên nút chai. Champagne - Dom Perignon.

Chai tiếp theo được làm từ thủy tinh màu xanh đen, với một cái nhãn màu kem đơn giản và chữ viết màu đen. Anh tặng nó cho tôi với một cái vung tay hơi bay bướm, và tôi trông thấy đề ngày: năm 1976.

"Năm sinh của em!" tôi thốt lên.

Matthew hiện ra với hai chai rượu nữa: một chai có nhãn dài, hình bát giác và được gắn kín bằng một thứ gì đó trông giống như hắc ín. Còn chai thứ hai thì có một miếng thẻ cũ làm từ sợi gai được thắt xung quanh cổ chai bằng một sợi dây bẩn bụi.

"Chúng ta đi chứ?" Matthew hỏi, thổi tắt ngọn nến. Anh khóa cửa cẩn thận, giữ thăng bằng hai chai rượu trên tay kia, rồi thả chiếc chìa khóa vào túi quần. Chúng tôi để lại phía sau mùi rượu vang và leo trở lên tầng trệt.

Trong không khí mờ tối, Matthew dường như tỏa sáng với vẻ vui sướng, một ôm đầy rượu trên tay. "Thật là một buổi tối tuyệt vời," anh vui vẻ nói.

Chúng tôi lên căn hộ của anh, nó đẹp hơn tôi tưởng tượng nhưng dường như có phần kém hoành tráng hơn. Các phòng nhỏ hơn căn hộ của tôi ở New College, tọa lạc trên đỉnh một trong những dãy cổ xưa nhất ở All Souls, đầu những góc hẹp một cách buồn cười và có chỗ nhô lên dốc xuống kỳ lạ. Mặc dù trần nhà đủ cao để điều chỉnh cho thích hợp với chiều cao của Matthew, căn hộ này dường như vẫn quá nhỏ để chứa được anh chàng. Anh phải khom người khi đi qua mỗi cánh cửa, và bệ cửa sổ thì thấp ngang bắp đùi anh.

Căn hộ này chỉ thiếu mỗi kích thước, còn các phòng được trang hoàng quá trời đồ nội thất. Một tấm thảm Aubusson đã bạc màu được trải ngang qua sàn các phòng, án ngữ trên nó là một bộ sưu tập đồ nội thất nguyên bản của William Morris. Chẳng hiểu sao mà kiến trúc thế kỷ 15, thảm sàn thế kỷ 18, và đồ đạc bằng gỗ sồi thô kệch của thế kỷ 19 ở cạnh nhau lại trông đẹp nguy nga lộng lẫy và mang đến cho căn hộ bầu không khí của một câu lạc bộ dành riêng cho các quý ông thời Edward đến vậy.

Một bàn ăn rộng mênh mông được kê ở góc xa trong căn phòng chính, sách báo và hỗn hợp đủ loại giấy vụn của đời sống học giả được sắp xếp gọn gàng ở một đầu - những tờ ghi nhớ về chính sách mới, tạp chí nghiên cứu khoa học, những yêu cầu danh cho thư từ và các bài phê bình của các chuyên gia. Mỗi chồng được chặn xuống bằng một món đồ khác nhau. Chúng gồm một bài báo thật trong tấm kính nặng màu nâu, một hòn gạch cũ, một cái mề đay bằng đồng mà không nghi ngờ gì chính là một giải thưởng nào đó mà anh đã giành được, và một cái que cời lửa nhỏ. Ở đầu kia bàn, tấm vải dạ mềm mại trải trên lớp gỗ, được giữ chặt bằng một chân nến bằng bạc thời các vua George đẹp lộng lẫy mà tôi chưa bao giờ nhìn thấy bên ngoài một viện bảo tàng. Một dãy ly uống rượu vang với các hình dáng khác nhau được sắp hàng ngũ chỉnh tề đứng canh gác cho những chiếc đĩa trắng giản dị, và còn nhiều đồ bằng bạc từ thời các vua George nữa.

"Em thích nó." Tôi nhìn quanh vẻ hài lòng. Không có một mẩu đồ gỗ nội thất hay một món đồ trang trí nào ở trong căn phòng này là của trường cả. Tất cả đều hoàn hảo, và mang tinh túy phong cánh của Matthew.

"Em ngồi đi." Anh giải thoát cho hai chai rượu vang khỏi mấy ngón tay mỏi nhử của tôi và đưa chúng vụt đi tới chỗ trông giống như một cái tủ xếp được trang trí. "All Souls không nghĩ là các ủy viên giám đốc sẽ ăn trong phòng của họ," anh giải thích khi tôi nhìn vào tiện nghi sơ sài của căn bếp, "bởi vậy nên chúng ta sẽ làm đến hết mức có thể."

Thứ tôi sắp ăn sẽ ngang với một bữa tối ngon nhất trong thị trấn, không nghi ngờ gì nữa.

Matthew ném chai champagne vào trong một cái xô bạc đầy đá và đến ngồi cùng tôi trên một chiếc ghế bành ấm cúng dễ chịu đặt bên sườn cái lò sưởi không còn dùng đến. "Không ai để em đốt lửa trong các lò sưởi của Oxford nữa đâu." Anh ảo não ra hiệu về phía vách lò quây bằng đá trống không đó. "Khi mọi lò sưởi được đốt lên, thì thành phố này có mùi như lửa đốt rác vậy."

"Anh đến Oxford lần đầu tiên là khi nào?" Tôi hy vọng câu hỏi mở của mình sẽ đảm bảo với anh rằng tôi không phải đang tò mò tọc mạch vào cuộc sống trong quá khứ của anh.

"Lần này là vào năm 1989." Anh duỗi đôi chân dài cùng với một tiếng thở phào thư giãn. "Anh đến Oriel với tư cách là một sinh viên nghiên cứu khoa học và lưu lại một thời gian nữa để lấy học vụ Tiến sĩ. Khi anh giành được một giải Học Bổng Nghiên Cứu Sinh All Souls, anh đột ngột chuyển đến đây trong năm. Khi học vị của anh đã hoàn thành, trường đại học đề nghị trao cho anh một vị trí và các thành viên bầu anh làm một ủy viên giám đốc." Mỗi lúc anh nói là một điều gì đó kinh ngạc lại nhảy vọt ra. Một giải cho nghiên cứu sinh ư? Mỗi năm chỉ có hai giải này.

"Và đây là lần đầu tiên anh ở All Souls à?" tôi cắn môi, và anh bật cười.

"Chúng mình hãy hoàn thành cho xong chủ đề này nhé," anh nói, giơ hai tay lên và bắt đầu đánh dấu các trường đại học. "Anh đã là thành viên - một lần - của Merton, Magdalen, và Đại học các trường chuyên nghiệp. Anh từng là thành viên của New College và Oriel hai lần. Và đây là lần đầu tiên All Souls thu hút sự chú ý của anh."

Nhân câu trả lời này lên bằng một thừa số của Cambridge, Paris, Padua, và Montpellier - tất cả các trường trong số đó, tôi dám chắc đã từng có một sinh viên tên Matthew Clairmont trong sổ sách của họ, hoặc vài biến thể khác đi của cái tên đó. Câu trả lời cùng với những suy luận ấy mang đến một cơn hoa mắt chóng mặt cứ nhảy nhót và dâng lên mãi trong đầu tôi. Anh ấy đã nghiên cứu những gì, trong suốt những năm ấy, và nghiên cứu cùng với ai?

"Diana?" Giọng nói thích thú của Matthew xuyên qua những ý nghĩ của tôi. "Em có nghe anh nói không?"

"Em xin lỗi." Tôi nhắm mắt và xiết chặt tay trên đùi, cố gắng giữ cho thần trí không nghĩ vơ vẩn nữa. "Nó giống như một căn bệnh ý. Em không thể giữ cho trí tò mò ở yên khi anh bắt đầu hồi tưởng lại."

"Anh biết. Đó là một trong những khó khăn mà một anh chàng ma cà rồng phải đối mặt khi hắn ta ở bên một cô phù thủy là nhà sử học." Matthew bĩu môi chế giễu, nhưng ánh mắt thì lấp lánh như những ánh sao đen.

"Nếu anh muốn tránh những khó khăn này trong tương lai, thì em gợi ý là anh nên tránh khu vực tham khảo môn cổ tự học của Bodleinan." Tôi chanh chua đáp.

"Một nhà sử học là tất cả những gì anh phải xoay xở xử lý lúc này đây." Matthew êm ái nhấc chân lên. "Thế em đã đói chưa nào?"

Tại sao anh chàng cứ tiếp tục làm một điều bí ẩn - tôi không đói khi nào chứ?

"Rồi," tôi đáp, cố tách mình ra khỏi chiếc ghế bành sâu kiểu Morris. Matthew đưa tay ra. Tôi túm lấy nó, và anh nâng tôi dậy dễ dàng.

Chúng tôi đứng đối diện nhau, người gần sát. Tôi lại dán mắt vào cái bình thánh tích Bethany gồ lên dưới lớp áo lên của anh.

Ánh mắt anh lướt qua tôi, để lại một vệt dài cảm giác bông tuyết rơi trên da tôi. "Em trông thật đáng yêu." Tôi cúi đầu xuống, và lọn tóc bướng bỉnh mọi khi lại xòa xuống mặt. Anh lại đưa tay lên như mọi lần, vén nó ra sau tai tôi. Lần này những ngón tay anh vẫn tiếp tục đặt sau ót tôi. Anh nâng mái tóc tôi lên và để từng lọn tóc rơi qua những kẽ ngón tay như thể đó là một dòng nước vậy. Tôi rùng mình khi bầu không khí mát lạnh chạm vào da thịt.

"Anh thích mái tóc của em," anh thì thào. "Nó có mọi màu sắc có thể tưởng tượng được - thậm chí có cả những sợi đỏ và đen nữa." Tôi nghe một tiếng hít vào đột ngột - anh ấy đã thu được một mùi hương mới.

"Anh ngửi thấy gì vậy?" Giọng tôi chắc nịnh, và vẫn chưa dám ngước lên gặp ánh mắt anh.

"Em," anh thầm thì trong hơi thở.

Ánh mắt tôi thoáng ngước lên nhìn anh.

"Chúng mình ăn tối chứ?"

Sau đó, thật khó mà tập trung vào các món ăn được, nhưng tôi đã làm hết sức. Matthew kéo cái ghế bị xô lệch của tôi ra, từ chỗ ngồi ấy tôi có thể nhìn bao quát cả căn phòng ấm áp, đẹp đẽ. Từ một chiếc tủ lạnh nhỏ xíu, anh lấy ra hai cái đĩa, mỗi đĩa có sáu con hàu tươi ngon làm tổ trên đỉnh một luống kem trộn nhàu giống như những vệt sáng của một ngôi sao.

"Bài giảng số một dành cho em bao gồm hàu và champagne." Matthew ngồi xuống và giơ một ngón tay lên giống như một ông hiệu trưởng sắp đắm mình vào môn học yêu thích. Anh với chai rượu vang trong tầm tay và kéo nó ra khỏi cái thùng. Với một cú xoay anh đã bật đánh bốp cái nút bần ra khỏi cổ chai.

"Em luôn thấy điều đó khó hơn cả," tôi bình luận thờ ơ, nhìn những ngón tay mạnh mẽ, tao nhã của anh.

"Anh có thể dạy em mở nút chai ra bằng một thanh gươm nếu em muốn." Matthew cười tươi hết cỡ. "Dĩ nhiên, một con dao cũng hiệu quả mà, nếu em không có một thanh gươm ở quanh mình." Anh rót một tí chất lỏng ấy vào ly của chúng tôi, nó kêu xì xèo và nhảy nhót trong ánh nến.

Anh nâng ly hướng về phía tôi. "À la tienne."

"À la tienne." Tôi nâng cái lý đang kêu xèo xèo lên và ngắm nhìn những bong bóng vỡ ra trên bề mặt của nó. "Tại sao các bong bóng lại nhỏ xíu thế nhỉ ?"

"Bởi vì rượu này quá lâu năm. Hầu hết champagne đều được uống trước nó rất lâu rồi. Nhưng anh thích rượu lâu năm - nó nhắc anh nhớ đến cái cách mà champagne thường được thưởng thức trước đây."

"Nó bao nhiêu năm tuổi rồi ?"

"Già hơn em đấy," Matthew đáp. Anh đang dùng tay không để tách vỏ hàu ra - việc này thường cần đến một con dao rất sắc và rất nhiều sự khéo léo - rồi liệng vỏ vào trong cái bát thủy tinh đặt giữa bàn. Anh đưa một đĩa cho tôi. "Nó có từ năm 1961."

"Làm ơn hãy nói với em đây là thứ rượu nhiều tuổi nhất mà chúng ta sẽ uống tối nay đi," tôi nói, nghĩ lại chai rượu anh đã mang đến vào bữa tối hôm thứ Ba, tôi đã cắm bông hồng trắng cuối cùng của anh vào vỏ chai của nó và đặt trên bàn cạnh giường ngủ của mình.

"Không đời nào," anh nói và nở nụ cười tươi rói.

Tôi khêu phần hàu trong mảnh vỏ đầu tiên cho vào miệng. Mắt tôi trợn tròn khi miệng mình đầy hương vị của Đại Tây Dương.

"Giờ thì uống đi. " Anh cầm ly của mình lên và nhìn tôi nhấp một ngụm thứ chất lỏng vàng óng đó. "Em cảm nhận được mùi vị gì ?"

Bọt mịn của rượu và những con hàu xung động cùng với vị muối biển mặn mòi tạo thành một cảm giác vô cùng mê hoặc trên đầu lưỡi. "Cứ như là cả đại dương đang ở trong miệng em vậy," tôi trả lời, nhấp thêm một ngụm khác.

Chúng tôi dùng xong món hàu rồi chuyển tới một đĩa sa-lát khổng lồ. Mỗi món rau xanh của nó đều rất đắt tiền đối với con người, quả hạch này, rồi những quả mọng và một món dầu trộn ngon lành làm bằng champagne nho và dầu ô liu mà Matthew trộn ngay tại bàn. Những lát thịt nhỏ xíu tô điểm cho món sa-lát này là thịt gà gô từ sân Chòi Gác Cổ. Chúng tôi nhấm nháp thứ Matthew gọi là "rượu sinh nhật," nó có mùi giống như nước lau sàn hương chanh hòa cùng mùi khói, với vị giống như phấn viết và kẹo bơ đường.

Món kế tiếp là một món hầm, với những khoanh thịt trong nước xốt thơm phức. Miếng cắn đầu tiên đã cho tôi biết đó là thịt bê, kèm với táo và một chút kem, ăn cùng với cơm. Matthew ngắm tôi ăn, anh mỉm cười khi tôi nếm vị chua của táo lần đầu tiên. "Nó là một công thức nấu ăn cổ từ vùng Normandy," anh nói. "Em có thích không?"

"Nó tuyệt quá. Anh làm món này đấy à?"

"Không," anh nói. "Đầu bếp của nhà hàng của Mục Sư Già nấu đấy - ông ta còn cung cấp cho anh những chỉ dẫn quý giá về cách làm thế nào để nó không bị cháy khi hâm nóng lại."

"Anh có thể hâm nóng bữa tối của em bất cứ lúc nào." Tôi để cho hơi ấm từ món hầm thấm đẫm vào mình. "Anh không ăn kìa."

"Không, anh không đói." Anh tiếp tục ngắm tôi ăn một lúc nữa, rồi trở vào bếp để đem ra một chai rượu khác. Nó được gắn kín bằng sáp ong đỏ. Anh cắt một lát mỏng xuyên qua lớp sáp ong và lôi cái bút bần ra. "Hoàn hảo," anh dõng dạc nói, cẩn thận rót chất lỏng đỏ tươi ấy vào chiếc bình đựng rượu bên cạnh.

"Anh có thể ngửi thấy mùi của nó ư?" Tôi vẫn không chắc về phạm vi năng lực khứu giác của anh ấy.

"Ồ, có chứ. Nhất là rượu này." Matthew rót cho tôi một chút và cũng rót một chút vào chiếc ly của chính mình. "Em đã sẵn sàng để nếm thử một thứ thật thần diệu chưa?" anh hỏi. Tôi gật đầu. "Đây là Chaateau Margaux làm từ một vụ nho rất tuyệt vời. Vài người còn coi nó là thứ rượu vang đỏ ngon nhất từng được sản xuất."

Chúng tôi nâng ly, tôi bắt chước theo từng động tác của Matthew. Anh đưa mũi lại gần ly, và tôi cũng kề mũi mình vào. Mùi hương hoa violet ập lên tôi. Lần nếm thử đầu tiên của tôi giống như đang uống nhung mượt vậy. Sau đó là sữa, sô-cô-la, anh đào, và một cơn lũ những hương vị làm mờ đi ý thức của tôi và mang trở lại những ký ức về mùi hương xa xưa, mùi hương của những công trình bố tôi nghiên cứu sau khi ông hút thuốc và dọn sạch bào gỗ khỏi chiếc bút chì hai ngăn. Điều cuối cùng tôi nhận thấy là hương vị đầy kích thích nhắc tôi nhớ tới Matthew.

"Thứ này có hương vị giống anh!" Tôi nói.

"Như thế nào?" anh hỏi.

"Kích thích," tôi nói, đột ngột đỏ hết cả mặt từ má đến tận chân tóc.

"Chỉ kích thích thôi à?"

"Không. Đầu tiên em đã nghĩ nó giống như hương hoa - violet - bởi vì nó có mùi như thế. Nhưng rồi em nếm thấy tất cả các loại hương vị. Thế anh nếm thấy gì?"

Phản ứng của Matthew thú vị và ít ngượng ngùng hơn phản ứng của tôi. Anh ngửi, lắc xoáy tròn và nếm thử. "Hoa violet - anh đồng ý với em ở điểm đó. Những bông hoa violet đỏ tía bọc đầy đường. Elizabeth Tudor thích kẹo hoa violet, và chúng đã làm răng của bà ta sâu sạch." Anh lại nhấp ngụm nữa. "Mùi khói của những điếu xì-gà ngon lành, giống loại từng có mặt trong câu lạc bộ Marlborough khi hoàng tử xứ Wales ghé thăm. Những quả mâm xôi dại hái trong hàng rào bên ngoài chuồng ngựa của Chòi Gác Cổ và nho Hy Lạp dầm trong rượu brandy."

Quan sát một ma cà rồng sử dụng những quyền năng giác quan của anh ta chắn chắn phải là một trong những trải nghiệm siêu thực nhất đối với bất cứ ai. Không chỉ ở việc Matthew có thể nhìn và nghe được những điều tôi không thể - mà khi anh cảm nhận một thứ gì đó, thứ năng lực tri giác ấy quá sắc bén và chính xác. Không phải quả mâm xôi bất kỳ nào đó, mà nó là một quả mâm xôi khác thường, từ một nơi khác thường hoặc một thời điểm khác thường.

Matthew tiếp tục uống rượu, còn tôi ăn nốt món hầm. Tôi cầm ly rượu của mình lên với một tiếng thở dài thỏa mãn, và nghịch chân ly rượu cho nó bắt ánh sáng từ những ngọn nến.

"Anh nghĩ em sẽ có mùi vị như thế nào?" tôi thắc mắc, giọng đùa cợt.

Matthew phóng bật lên trên đôi chân, gương mặt trắng bệch giận dữ. Khăn ăn rơi xuống sàn. Một mạch máu trước trán anh căng ra trước khi co lại.

Tôi đã nói một điều sai lầm!

Anh đến bên cạnh tôi chỉ trong chớp mắt, và kéo mạnh tôi đứng lên khỏi ghế. Những ngón tay anh bấu chặt lấy hai khuỷu tay tôi.

"Có một truyền thuyết về ma cà rồng mà chúng ta chưa bàn luận đến, phải không nhỉ?" Ánh mắt anh thật xa lạ, nét mặt anh trở nên khủng khiếp. Tôi cố vặn tay ra nhưng những ngón tay anh càng ấn sâu hơn. "Đó là khi một gã ma cà rồng nhận ra hắn quá mê đắm một phụ nữ thì hắn không thể kiềm chế được bản thân mình."

Tâm trí tôi lướt nhanh qua những gì đã xảy ra. Anh ấy đã hỏi tôi nếm thấy mùi vị ra sao. Tôi đã nếm thấy vị của anh ấy. Thế rồi anh nói cho tôi biết mùi vị anh nếm được và tôi đã nói... "Ôi, Matthew," tôi thì thầm.

"Em thắc mắc anh sẽ thấy sao nếu nếm thử mùi vị em ư?" Giọng Matthew chùng xuống thành một thứ gì đó trầm sâu hơn và nguy hiểm hơn. Trong khoảnh khắc tôi cảm thấy khiếp sợ.

Trước khi cảm giác đó dấy lên mạnh hơn, anh đã thả hai cánh tay tôi ra. Tôi không kịp phản ứng hay rút tay lại. Matthew đã luồn những ngón tay qua tóc tôi, hai ngón tay cái của anh ép vào phía sau đầu tôi. Tôi lại bị bắt lần nữa, và một cảm giác đông cứng ập đến, tỏa lan ra từ sự tiếp xúc lạnh lẽo của anh. Có phải tôi đã say vì hai ly rượu vang không? Hay tôi bị bỏ thuốc mê? Điều gì khác nữa có thể giải thích cho cái cảm giác mà tôi không thể thoát ra được lúc này?

"Không chỉ hương thơm của em làm tôi hạnh phúc đâu. Tôi có thể nghe thấy dòng máu phù thủy của em khi nó di chuyển qua các huyết mạch." Đôi môi lành lạnh của Matthew chạm vào tai tôi, hơi thở của anh thật ngọt ngào. "Em có biết là dòng máu của một phù thủy tạo thành tiếng nhạc không? Giống như tiếng hát của nàng Siren mê hoặc chàng thủy thủ, đòi anh ta phải hướng mũi thuyền vào vách đá, tiếng gọi của dòng máu trong người em có thể hủy hoại cả tôi và em nữa đấy." Lời anh nói thật lặng lẽ và thiết tha như thể anh đang nói chuyện với tâm thức của tôi.

Đôi môi của chàng ma cà rồng bắt đầu dịch chuyển dần lên quai hàm tôi. Mỗi chỗ môi anh chạm vào đều như đông cứng, rồi sau đó bùng cháy khi máu tôi dồn trở lại bề mặt làn da.

"Matthew," hơi thở tôi tắc lại nơi cuống họng. Tôi nhắm mắt mong chờ cái cảm giác hai hàm răng cắn vào cổ mình mà không thể, không muốn nhúc nhích.

Nhưng thay vào đó đôi môi hối hả của Matthew áp lên môi tôi. Hai cánh tay anh khóa chặt quanh người tôi, và những ngón tay anh đỡ lấy mái đầu tôi. Môi tôi hé mở dưới làn môi anh, hai bàn tay bị kẹt giữa lồng ngực của anh và của tôi. Bên dưới lòng bàn tay tôi, trái tim anh đã đập, chỉ một lần.

Cùng với nhịp đập của trái tim ấy, nụ hôn thay đổi. Matthew đòi hỏi ít hơn, nhưng cơn khao khát trong cái chạm xiết của anh trở thành một thứ gì đó vừa hạnh phúc vừa đau đớn. Hai bàn tay anh dịu dàng di chuyển tới trước cho tới khi chúng khum lại quanh khuôn mặt tôi, và rồi anh miễn cưỡng kéo người ra. Lần đầu tiên, tôi nghe thấy một âm thanh êm nhẹ rung lên. Nó không giống tiếng thở của con người. Đó là âm thanh trong giây lát lượng oxy đi qua hai lá phổi mạnh mẽ của một ma cà rồng.

"Anh đã lợi dụng sự sợ hãi của em. Đáng ra anh không nên thế." Matthew thì thầm.

Hai mắt tôi đã nhắm lại, và tôi vẫn cảm thấy say ngây ngất, mùi quế và đinh hương của anh đã xua tan đi hương violet trong rượu. Bồn chồn không yên, tôi xao xuyến trong vòng tay xiết chặt của anh.

"Đứng yên nào," anh nói, giọng khàn khàn. "Anh không thể kiểm soát bản thân nếu anh bước đi đâu."

Trong phòng thí nghiệm ấy, anh đã cảnh báo tôi về mối quan hệ giữa động vật ăn thịt và con mồi. Giờ đây anh đang cố gắng bắt tôi phải đứng im như chết để con dã thú trong anh sẽ mất hứng thú với tôi.

Nhưng tôi không chết.

Mắt tôi hé mở. Không nhầm lẫn vào đâu được cái nhìn sắc lạnh trên gương mặt anh. Đó là sự thèm khát, là cơn đói. Bây giờ Matthew đang là một sinh vật của bản năng. Nhưng tôi cũng có những bản năng của mình.

"Em an toàn khi ở bên anh." Tôi thốt ra những lời ấy bằng đôi môi vừa lạnh cứng vừa cháy bỏng, chưa quen với cảm giác nụ hôn của một chàng ma cà rồng.

"Một phù thủy - an toàn với một gã ma cà rồng ư? Không bao giờ chắc chắn được về điều đó đâu. Chỉ mất một khắc thôi, em sẽ không thể ngăn tôi nếu tôi tấn công, và tôi cũng sẽ không ngăn nổi bản thân mình." Ánh mắt chúng tôi gặp nhau và bị khóa chặt ở đó. Matthew thốt lên một tiếng trầm trầm ngạc nhiên. "Em mới can đảm làm sao."

"Em chưa bao giờ can đảm cả."

"Khi em cho máu trong phòng thí nghiệm, cách em đón nhận ánh nhìn của một ma cà rồng, cách em yêu cầu những sinh vật khác người đó ra khỏi thư viện, thậm chí em còn quay trở lại đó hết ngày này sang ngày khác, không cho bọn người đó cản trở em làm điều mình muốn - tất cả đều là sự dũng cảm."

"Đó là sự bướng bỉnh." Dì Sarah đã giải thích sự khác biệt ấy từ rất lâu trước đây.

"Anh đã từng thấy dũng khí giống như của em trước đây - hầu hết là từ những người phụ nữ." Matthew tiếp tục cứ như tôi không nói gì. "Đàn ông không có dũng khí ấy. Ý chí mạnh mẽ quyết tâm của đàn ông bọn anh được sinh ra bên ngoài nỗi sợ hãi. Nó chỉ đơn thuần là tỏ vẻ can đảm và có dũng khí thôi."

Cái liếc nhìn của anh thoáng qua tôi, mang theo những bông tuyết lạnh. Khoảng khắc chúng chạm vào tôi, chúng tan chảy thành cảm giác mát lạnh trong ngần. Một ngón tay lành lạnh với ra bắt lấy một giọt nước mắt từ bờ mi tôi. Nét mặt anh thật buồn khi anh nhẹ nhàng hạ tôi ngồi vào ghế và cúi mình bên cạnh tôi, đặt một bàn tay lên đầu gối tôi còn tay kia đặt trên thành ghế tạo thành một vòng tròn bảo vệ. "Hãy hứa với anh rằng em sẽ không bao giờ đùa giỡn với một ma cà rồng - thậm chí cả với anh - về dòng máu hay mùi vị của em như thế nào."

"Em xin lỗi," tôi thầm thì nói, buộc mình không được quay nhìn đi chỗ khác.

Anh lắc đầu. "Em đã nói với anh từ trước là em không biết nhiều về ma cà rồng. Điều em cần hiểu là không một ma cà rồng nào có thể miễn dịch được trước sức cám dỗ nhường này. Những ma cà rồng có lương tâm đã dành gần hết thời gian cuộc đời họ để cố gắng không hình dung xem người ta có mùi vị ra sao. Nếu em gặp một ma cà rồng không có lương tâm - và có rất nhiều kẻ đứng trong danh sách đó đấy - thì có Chúa mới giúp được em."

"Em đã không suy nghĩ." Tôi vẫn không thể suy nghĩ gì. Tâm trí tôi còn đang xoáy trộn trong ký ức về nụ hôn của anh, cơn xúc động mãnh liệt và cơn đói có thể sờ thấy được của anh.

Anh cúi xuống, đầu tựa vào vai tôi. Cái bình thánh tích từ Bethany tuột ra từ cổ áo len của anh và đung đưa như một quả lắc, cái quan tài nhỏ xíu của nó lóe sáng dưới ánh nến.

Anh nói quá đỗi khẽ khàng, "Phù thủy và ma cà rồng không được sinh ra để cảm thấy những cảm xúc theo cách này. Anh đang trải nghiệm những xúc cảm mà anh chưa bao giờ..." Anh đột ngột ngừng lại.

"Em biết." Tôi thận trọng tựa má mình lên tóc anh. Mái tóc ấy giống như sa tanh đúng như vẻ bề ngoài của nó. "Em cũng cảm thấy chúng."

Trước những lời tôi thổ lộ, hai cánh tay Matthew đang ở nguyên chỗ cũ bỗng từ từ cử động và xiết chặt lấy quanh eo tôi. Cảm giác lành lạnh của da thịt anh xuyên qua quần áo của tôi, nhưng tôi không rùng mình. Ngược lại tôi càng di chuyển tới gần sát hơn để có thể choàng hai cánh tay qua vai anh.

Một chàng ma cà rồng có thể thoái mái dễ chịu giữ nguyên tư thế này suốt mấy ngày liền. Thế nhưng đối với một phù thủy đơn thuần thì điều đó là không khả dĩ. Khi tôi khẽ thay đổi tư thế, Matthew nhìn bối rối, và rồi gương mặt anh sáng lên khi hiểu ra.

"Anh quên mất," anh nói, nâng người lên với sự uyển chuyển mau lẹ và bước ra xa khỏi tôi. Đầu tiên tôi cử động một chân rồi đến chân kia, khôi phục lại tuần hoàn cho đôi bàn chân.

Matthew đưa cho tôi ly rượu và quay lại chỗ ngồi của mình. Khi anh đã yên vị, tôi cố gắng gợi cho anh một thứ gì đó để suy nghĩ ngoài việc tôi có mùi vị như thế nào.

"Câu hỏi thứ năm anh phải trả lời để giành được học bổng là gì vậy?" Các ứng cử viên được mời ngồi làm một bài kiểm tra liên quan đến bốn câu hỏi kết hợp cả chiều rộng lẫn chiều sâu tư duy cực kỳ phức tạp và hiểm hóc. Nếu bạn vượt qua được bốn câu hỏi đầu tiên đó, bạn sẽ được hỏi "câu hỏi thứ năm" nổi tiếng. Nó không hẳn là một câu hỏi, mà là một từ duy nhất kiểu như "nước" hay "vắng". Tùy thuộc vào ứng viên đó quyết định trả lời như thế nào, và chỉ câu trả lời xuất sắc nhất mới giúp bạn thắng được một vị trí ở All Souls.

Anh với qua bàn - mà không làm bản thân bị bắt lửa - và rót thêm ít rượu vào lý của tôi. "Dục vọng," anh nói, cố ý tránh ánh mắt tôi.

Quá nhiều đối với một kế hoạch nghi binh.

"Dục vọng ư? Vậy anh đã viết gì?"

"Chỉ có hai cảm xúc giữ cho thế giới này quay hết năm này sang năm khác." Anh ngập ngừng, rồi tiếp tục. "Một thứ là sợ hãi. Còn thứ kia là thèm khát. Đó là những gì anh viết."

Tôi nhận thấy tình yêu không phải nhân tố trong câu trả lời của anh. Đó một bức tranh thú tính phàm tục, một cuộc chiến giằng co giữa hai xung lực ngang sức nhưng đối chọi nhau. Tuy nhiên, trong đó có một hồi chuông của sự thật mà còn hơn cả những điều vẫn được người ta nói trơn tru: "tình yêu làm thế giới này quay." Matthew tiếp tục bóng gió gợi ý rằng dục vọng của anh - chủ yếu liên quan đến máu - là quá mạnh mẽ đến nỗi nó đặt mọi thứ khác vào vòng nguy hiểm.

Nhưng ma cà rồng không phải sinh vật khác người duy nhất phải xoay sở kiềm chế trước những thôi thúc mạnh mẽ như thế. Nhiều thứ trong những cái được đánh giá là phép màu lại đơn giản chỉ là sự khao khát trong hành động. Dù phép thuật phù thủy cần có thêm bùa phép và nững nghi thức, nhưng chỉ cần một điều ước, một nhu cầu, một cơn đói quá mạnh mẽ không thể bị chối từ - những điều này có thể chuyển thành kỳ tích khi chúng lướt qua tâm trí một phù thủy.

Và nếu Matthew sắp sửa kể cho tôi nghe về những bí mật của anh ấy, thì dường như việc giữ kín những bí mật của tôi thật không công bằng.

"Phép thuật khởi nguồn từ sự khát khao tạo nên hiện thực. Đó chính là cách em kéo cuốn Những Chú giải và Thắc mắc xuống khỏi giá sách vào đêm chúng ta gặp nhau," tôi chậm rãi nói. "Khi một phù thủy tập trung vào cái mà cô ta mong muốn, và rồi tưởng tượng ra cách có thể đạt được nó thì cô ta có thể khiến chuyện đó xảy ra. Thế nên em luôn phải rất cẩn thận trong công việc của mình." Tôi nhấp một hớp rượu, tay run rẩy trên chiếc ly.

"Thế rồi em dành hầu hết thời gian của mình để cố gắng không mong muốn thứ gì, giống như anh vì cùng một vài lý do nào đó." Bông tuyết của Matthew thoáng lướt qua rung rinh trên hai má tôi.

"Nếu anh ám chỉ đến nỗi sợ hãi mà một khi em đã bắt đầu thì không có gì có thể ngăn em lại được - thì đúng vậy. Em không muốn nhìn lại cuộc sống nơi em nắm được mọi thứ mà không phải tự kiếm được nó."

"Vậy là em kiếm được mọi thứ gấp hai rồi. Đầu tiên em giành được nó bằng cách không đơn giản bình thường, thế rồi em có được nó lần nữa thông qua công việc và nỗ lực." Anh bật cười chua chát. "Là một sinh vật thuộc thế giới khác không có nhiều lợi thế lắm, đúng không?"

Matthew gợi ý chúng tôi ngồi cạnh chiếc lò sưởi đã tắt lửa từ lâu. Tôi uể oải người trên ghế sofa, và anh mang một ít bánh quy quả hạch tới chiếc bàn bên cạnh trước khi biến mất vào trong bếp một lần nữa. Khi trở lại, anh mang ra một chiếc khay nhỏ với chai rượu màu đen cổ xưa ở trên đó - nút chai đã được rút ra - và hai ly rượu chứa thứ chất lỏng màu hổ phách. Anh đưa một ly cho tôi.

"Hãy nhắm mắt lại và nói cho anh biết em ngửi thấy mùi gì," anh lại hướng dẫn tôi bằng cái giọng của một ủy viên trong ban lãnh đạo Oxford. Hai mí mắt tôi ngoan ngoãn hạ xuống. Chất rượu này dường như xưa cũ nhưng đầy sức sống. Nó có mùi hương của những bông hoa, quả hạch, kẹo chanh và một thứ gì đó khác của thế giới quá khứ xa xưa mà tôi - cho tới giờ - chỉ có thể đọc và hình dung về nó.

"Nó có mùi hương giống như quá khứ. Nhưng không phải quá khứ chết chóc. Nó quá sống động."

"Hãy mở mắt ra và nhấp một ngụm đi."

Khi chất lỏng ngọt ngào, tươi sáng ấy đi xuống cổ họng, hương vị cổ xưa và đầy sức mạnh đó chảy tràn qua các huyết mạch của tôi. Vị máu của ma cà rồng chắc phải giống thứ này. Tôi giữ những ý nghĩ ấy cho riêng mình.

"Anh sẽ nói cho em biết đó là thứ gì chứ?"

"Rượu ngọt và mạnh," anh đáp với nụ cười tươi rói. "Rượu mạnh và ngọt rất cổ xưa."

"Bao nhiêu tuổi?" Tôi nghi ngờ hỏi. "Có già như anh không?"

Anh bật cười. "Không. Em không muốn uống bất cứ thứ gì già như anh đâu. Nó được sản xuất năm 1795, từ những quả nho lớn lên trên những hòn đảo của Madeiras. Nó khá là nổi tiếng vào thời đó, nhưng bây giờ chẳng còn ai chú ý đến nó cả."

"Ngon tuyệt," tôi nói với vẻ thỏa mãn và ham muốn. "Em chưa bao giờ uống thứ gì ngon đến thế." Anh lại bật cười và thoải mái ngồi xuống một trong những chiếc ghế kiểu Morris.

Chúng tôi trò chuyện về thời gian anh ở All Souls, về Hamish - hóa ra cũng là người từng được giải thưởng - và những cuộc phiêu lưu của họ trong Oxford. Tôi bật cười trước những câu chuyện của anh về bữa tối khủng khiếp trong đại sảnh và anh đã phải chạy trốn đến Woodstock như thế nào sau mỗi bữa ăn để loại bỏ sạch mùi vị của thịt bò nấu chín khỏi miệng mình.

"Em trông mệt rồi," cuối cùng anh nói, đứng lên sau khi đã uống cạn một ly nữa và trò chuyện với tôi thêm một giờ nữa.

"Em mệt thật." Bất chấp sự mệt mỏi của mình, tôi cần phải nói với anh một điều trước khi anh đưa tôi về nhà. Tôi cẩn thận đặt ly rượu của mình xuống. "Em đã quyết định rồi Matthew ạ. Thứ Hai này em sẽ gọi lại Ashmole 782."

Chàng ma cà rồng ngồi thụp xuống.

"Em không biết làm cách nào mà mình phá vỡ được bùa chú lần đầu tiên, nhưng em sẽ thử lại lần nữa. Knox không mấy tin rằng em sẽ thành công." Miệng tôi mím chặt lại. "Ông ta biết điều gì ư? Ông ta không thể phá vỡ bùa phép một lần nào. Khi em mở được cuốn sách ra, anh sẽ đọc được chữ trong bản giấy da cừu có phép thuật ấy, chúng nằm bên dưới những hình vẽ."

"Em có ý gì, em không biết mình đã làm gì để phá vỡ được bùa chú đó ư?" Trán Matthew nhăn lại bối rối. "Em đã dùng những từ gì? Em đã gọi lên những sức mạnh nào?"

"Em đã phá bùa chú mà không ý thức gì cả," tôi giải thích.

"Chúa ơi, Diana." Anh lại phóng dậy lần nữa. "Knox có biết rằng em không dùng phép thuật không?"

"Em không nói với ông ta." Tôi nhún vai. "Với lại, điều đó thì có gì quan trọng đâu?"

"Nó quan trọng bởi vì em đã không phá bỏ trạng thái bị yểm bùa của cuốn sách, thế rồi em bắt gặp nó mở sẵn ra cho em như thế. Ngay lúc này đây các sinh vật khác đang chờ đợi để chứng kiến bất cứ cách phản bùa nào em sử dụng, sao chép nó nếu có thể và giành lấy Ashmole 782 cho chính họ. Khi các đồng đạo phù thủy của em phát hiện ra bùa chú ấy mở ra cho em theo ý muốn của riêng nó, thì họ sẽ không còn kiên nhẫn và cư xử tử tế thế nữa."

Gương mặt giận dữ của Gillian lướt nhanh qua trước mắt tôi, kèm thêm một hồi ức mạnh mẽ về bài diễn thuyết dài ngoằng của cô ta về những phù thủy đã qua đời để tọc mạch vào bí mật của bố mẹ tôi. Tôi gạt những ý nghĩ đó sang một bên, dạ dày quặn lên, và tập trung vào kẽ hở trong lời tranh luận của Matthew.

"Bùa chú đó được xây dựng từ hơn một thế kỷ trước khi em sinh ra. Đó là điều không thể."

"Chỉ vì có điều gì đó dường như không thể không làm nó sai ngược lại so với sự thật," anh nói dứt khoát. "Newton biết điều đó. Không thể nói được Knox sẽ làm gì khi hắn hiểu ra mối quan hệ của em với bùa chú ấy."

"Em đang gặp nguy hiểm dù có gọi hay không gọi ra cuốn cổ thư ấy," tôi hiểu ra. "Knox sẽ không bỏ qua chuyện này, đúng không?"

"Ừ," anh miễn cưỡng đồng ý. "Và hắn sẽ không ngần ngại sử dụng phép thuật với em thậm chí nếu mọi người ở Bodleian có nhìn thấy việc hắn làm. Anh có thể không kịp tới chỗ em được."

Ma cà rồng đã nhanh, nhưng phép thuật còn nhanh hơn.

"Thế thì em sẽ ngồi gần bàn với anh. Chúng ta sẽ biết ngay khi cuốn cổ thư được giao đến."

"Anh không thích điều này," Matthew nói, rõ ràng đang lo lắng. "Sự can đảm và liều lĩnh chỉ cách nhau một lằn ranh nhỏ, Diana ạ."

"Đó không phải là liều lĩnh - Em chỉ muốn lấy lại cuộc sống của mình thôi."

"Sẽ thế nào nếu đây chính là cuộc sống của em?" anh hỏi. "Sẽ ra sao nếu em không thể tránh xa pháp thuật sau tất cả chuyện này?"

"Em sẽ giữ lại những phần của nó." Nhớ lại nụ hôn của anh và cảm xúc mãnh liệt đột ngột của sức sống bền bỉ đi cùng với nó, tôi nhìn thẳng vào mắt anh để anh biết được anh cũng được bao gồm trong đó. "Nhưng em sẽ không bị hăm dọa nữa đâu."

Matthew vẫn còn lo lắng về kế hoạch của tôi trong khi anh đi cùng tôi về nhà. Khi tôi rẽ vào hẻm New College để đi lối cổng sau, anh cầm lấy tay tôi.

"Không phải chỉ cuộc sống của em thôi đâu," anh nói. "Em có trông thấy cái nhìn của người gác cổng đó với anh không? Anh muốn ông ta biết rằng em đã an toàn trong trường."

Chúng tôi tìm đường đi ra lối đi bộ gồ ghề của phố Holywell, ngang qua lối vào quán Turf, và đi qua cổng New College. Chúng tôi tản bộ qua người gác cổng đầy cảnh giác, vẫn giữ tay trong tay.

"Mai em vẫn đi bơi thuyền chứ?" Matthew hỏi khi đến dưới chân cầu thang.

Tôi rên rỉ. "Không, em còn có cả nghìn lá thư giới thiệu phải viết kia kìa. Em sẽ ở trong phòng và dọn sạch cái bàn làm việc."

"Còn anh sẽ tới Woodstock để đi săn," anh nói vẻ ngẫu nhiên tỉnh bơ.

"Thế thì đi săn tốt nhé," tôi nói, vẻ tỉnh bơ không kém.

"Khi biết anh sẽ ra ngoài để săn tìm hươu nai cho chính mình mà em không thấy khó chịu chút nào sao?" Matthew nghe có vẻ sửng sốt.

"Không. Thi thoảng em ăn thịt gà gô. Đôi khi anh uống máu hươu nai." Tôi nhún vai. "Em không thấy có gì khác biệt cả."

Mắt Matthew lấp lánh. Anh hơi duỗi thẳng mấy ngón tay nhưng vẫn không thả tay tôi ra. Thay vào đó anh nâng nó lên môi và chầm chậm đặt một nụ hôn dịu dàng lên hõm sâu trong lòng bàn tay tôi.

"Lên giường đi nhé," anh nói, thả các ngón tay tôi ra. Ánh mắt anh để lại những vệt dài băng đá và tuyết phía sau khi chúng nấn ná lại không chỉ trên khuôn mặt mà còn cả trên người tôi nữa.

Tôi lặng lẽ nhìn lại anh, ngạc nhiên rằng một nụ hôn trên lòng bàn tay có thể thân thiết đến thế.

"Chúc ngủ ngon," tôi thở ra một hơi dài. "Em sẽ gặp anh vào thứ Hai nhé."

Tôi trèo lên những bậc thang hẹp dẫn lên căn hộ của mình. Cho dù ai đã vặn chặt lại nắm đấm cửa cũng đã tạo ra cả một mớ lộn xộn chỗ cái khóa, và ổ khóa kim loại cùng lớp gỗ cửa bị bao bọc trong những vết trầy xước còn mới. Vào trong phòng rồi, tôi bật đèn lên. Máy trả lời tự động đang nhấp nháy, dĩ nhiên là thế. Đến bên cửa sổ, tôi đưa tay lên để ra hiệu với anh rằng tôi đã an toàn ở trong nhà.

Vài giây sau, khi tôi ngó ra ngoài, Matthew đã biến mất.