- Mat Ma Phu Thuy All Souls Tap 1 Deborah Harkness Chuong 17

Tùy Chỉnh

Có một mùi đinh hương mạnh mẽ ở trong miệng tôi, và tôi bị cuốn như xác ướp trong chiếc chăn lông vịt của mình. Khi tôi cựa mình trong cái kén ấy, chiếc giường cũ kỹ hơi lún xuống.

"Suỵt." Đôi môi Matthew kề sát bên tai tôi, thân mình anh tạo thành một cái giá đỡ lấy lưng tôi. Chúng tôi nằm đó giống những cái thìa úp trong ngăn kéo, chặt sát vào nhau.

"Mấy giờ rồi?" Giọng tôi khàn khàn.

Matthew hơi nhích người ra xem đồng hồ đeo tay của anh. "Khoảng hơn một giờ."

"Em đã ngủ bao lâu rồi?"

"Từ khoảng sáu giờ tối qua."

Tối qua.

Tâm trí tôi vỡ òa ra thành những lời nói và hình ảnh: cuốn cổ thư, lời đe dọa của Peter Knox, các ngón tay tôi biến thành màu xanh phát ra những tia lửa điện, bức ảnh của bố mẹ, bàn tay của mẹ tôi lạnh cứng lại trong một cái với tay không bao giờ tới.

"Anh đã đưa cho em thuốc." Tôi đẩy cái chăn lông vịt, cố để bàn tay mình được tự do. "Em không thích dùng thuốc, Matthew ạ."

"Lần sau mà em lại bị sốc nữa, thì anh sẽ để em chịu đựng một cách vô ích đấy." Anh giật mạnh tấm chăn một cái làm nó bật tung ra, hiệu quả hơn tất cả nỗ lực vật lộn của tôi với nó.

Giọng nói sắc gọn của Matthew xóc lên những mảnh vỡ ký ức, và các hình ảnh mới lại dâng lên bề mặt. Gương mặt cay nghiệt của Gillian Chamberlain cảnh cáo tôi về việc cất giữ những bí mật, và mảnh giấy ra lệnh cho tôi phải nhớ lại. Trong một thoáng, tôi lại trở về hồi bảy tuổi, đang cố gắng để hiểu làm sao mà người bố và người mẹ tuyệt vời, đầy sức sống của tôi lại biến mất khỏi cuộc đời tôi.

Trong căn phòng của mình, tôi với về phía Matthew, trong khi đôi mắt trong tâm trí tôi lại nhìn thấy cánh tay mẹ với về phía bố nằm ngang trong một vòng phấn. Nỗi đau buồn từ thời thơ ấu vẫn còn rơi rớt lại, nó xung đột sự đồng cảm mới mẻ của tuổi trưởng thành dành cho nỗ lực tuyệt vọng của mẹ muốn chạm vào bố tôi. Tôi đột ngột vùng ra khỏi vòng tay Matthew, co hai đầu gối lên sát ngực trong tư thế một quả bóng cuộn chặt, cố che chở bảo vệ mình.

Matthew muốn giúp – tôi có thể thấy điều đó – nhưng anh không chắc chắn về tôi, những cảm xúc xung đột trong tôi phủ bóng trên khuôn mặt anh.

Giọng nói của Knox lại vang lên trong đầu tôi, đầy cay độc. Hãy nhớ mày là ai.

"Nhớ không?" mẩu giấy hỏi.

Không báo trước, tôi quay lại với chàng ma cà rồng, rút ngắn khoảng cách giữa tôi và anh trong vội vã. Bố mẹ tôi đã mất, nhưng Matthew thì ở đây. Rúc đầu vào dưới cằm anh, tôi lắng nghe tới mấy phút liền tiếng đập kế tiếp bơm máu đi khắp hệ tuần hoàn của anh. Nhịp điệu nhàn nhã từ trái tim ma cà rồng nhanh chóng đưa tôi vào giấc ngủ.

Nhưng trái tim tôi bỗng đập dồn khi tôi tỉnh dậy lần nữa trong đêm tối, đạp tung cái chăn lông vịt đã bị nới lỏng và quờ quạng ngồi dậy. Phía sau tôi, Matthew bật đèn bàn, bóng của nó vẫn hắt góc bên cạnh giường.

"Sao thế em?" anh hỏi.

"Phép thuật đã tìm thấy em. Các phù thủy cũng vậy. Em sẽ bị giết vì phép thuật của mình, giống như bố mẹ em đã bị giết!" Những lời nói ào ạt tuôn ra từ miệng tôi, cơn hoảng sợ tăng tốc lướt qua, và tôi loạng choạng trên đôi chân của mình.

"Không." Matthew nhổm dậy và đứng chắn giữa tôi và cánh cửa. "Chúng ta sẽ đối mặt với chuyện này, Diana ạ, dù cho nó là gì đi nữa. Nếu không thì em sẽ phải chạy trốn cả đời!"

Một phần trong tôi biết rằng anh nói đúng. Phần còn lại muốn bỏ chạy vào bóng tối. Nhưng làm sao tôi có thể cùng với một ma cà rồng đứng trên con đường đó chứ?

Bầu không khí bắt đầu khuấy động xung quanh tôi như đang cố đánh tan đi cảm xúc bị mắc bẫy. Những làn khói lạnh giá bốc lên từ mép hai ống quần tôi. Không khí luồn lên thân thể tôi thành một làn gió nhẹ, nâng mái tóc ôm quanh khuôn mặt tôi bay bồng bềnh. Matthew chửi thề và bước về phía tôi, cánh tay anh giơ ra phía trước. Cơn gió nhẹ tăng lên thành những luồng gió mạnh làm xáo trộn cả dra gường và rèm cửa.

"Ổn cả rồi." Giọng anh cố tình trầm xuống để nghe cho rõ giữa cơn gió lộng và cùng lúc để làm tôi bình tĩnh lại.

Nhưng điều đó vẫn không đủ.

Sức gió tiếp tục mạnh lên, và hai cánh tay tôi cũng đưa lên, nhào nặn không khí thành một cột xoáy dựng đứng bảo vệ quanh tôi giống như tấm chăn lông. Ở phía bên kia của cột khí, Matthew vẫn đứng đó, một bàn tay mở rộng, mắt gắn chặt vào ánh mắt tôi. Khi tôi mở miệng để cảnh cáo anh hãy tránh xa, chẳng có âm thanh nào được thốt ra ngoài làn khí giá lạnh.

"Ổn cả rồi," anh lại nói, không làm gián đoạn ánh nhìn chăm chú. "Anh sẽ không đi đâu."

Cho tới khi anh nói những lời ấy, tôi bừng tỉnh.

"Anh hứa đấy," anh kiên quyết nói.

Cơn lốc xoáy bao vây quanh tôi dao động và trở lại thành gió xoáy, sau đó là một cơn gió nhẹ, rồi hoàn toàn biến mất. Tôi thở hổn hển và khuỵu gối.

"Chuyện gì xảy ra với em thế?" Hàng ngày tôi chạy, chèo thuyền và tập yoga, cơ thể tôi làm theo những gì tôi bảo nó. Còn bây giờ nó đang làm những điều không tưởng. Tôi nhìn xuống để chắc chắn hai bàn tay mình không phải đang lấp lánh ánh điện và bàn chân mình không phải vẫn đang bị những cơn gió quất vào.

"Đó là một cơn gió phù thủy," Matthew giải thích, vẫn không nhúc nhích. "Em có biết đó là gì không?"

Tôi đã nghe nói tới một phù thủy ở Albany có thể triệu hồi những cơn bão, nhưng không ai từng gọi nó là một cơn gió phù thủy cả.

"Em không rõ lắm," tôi thú nhận, vẫn liếc trộm xuống bàn tay và bàn chân mình.

"Một vài phù thủy được thừa hưởng năng lực điều khiển các thành tố của không khí. Em là một trong số đó," anh nói.

"Cái đó không phải là điều khiển."

"Đây là lần đầu tiên của em." Matthew đi thẳng vào vấn đề. Anh phác tay bao quát cả căn phòng ngủ nhỏ: những tấm rèm và dra giường còn nguyên vẹn, tất cả quần áo rải rác trên chiếc tủ com mốt và sàn nhà đều ở chính xác vị trí chúng bị bỏ lại sáng hôm trước. "Cả hai chúng ta vẫn đang đứng đây, và căn phòng trông chẳng có vẻ gì như có một cơn lốc xoáy vừa đi qua cả. Vào lúc này, đó là sự kiểm soát."

"Nhưng em không yêu cầu nó. Có phải những chuyện này chỉ xảy đến với các phù thủy – lửa điện và gió – khi họ không triệu hồi?" Tôi gạt tóc ra khỏi mắt, chuếnh choáng và kiệt sức. Quá nhiều điều đã xảy đến trong hai mươi tư giờ qua. Thân mình Matthew lao nghiêng về phía tôi như để kịp đỡ nếu tôi có ngã.

"Ngày nay những cơn gió phù thủy và ngón tay màu xanh rất hiếm. Phép thuật ở bên trong em, Diana ạ, và nó muốn thoát ra ngoài cho dù em có yêu cầu nó hay không."

"Em cảm thấy như bị sập bẫy."

"Tối qua anh không nên dồn em vào thế bí." Matthew trông có vẻ xấu hổ. "Đôi khi anh không biết phải làm gì với em nữa. Em giống như một cỗ máy chuyển động không ngừng. Tất cả những gì anh muốn ở em là cứ đứng như thế trong một lúc và lắng nghe thôi."

Phải đương đầu với nhu cầu di chuyển không ngừng của mình thậm chí còn khó khăn hơn nếu bạn là một ma cà rồng hiếm khi có nhu cầu hít thở. Một lần nữa khoảng cách giữa Matthew và tôi lại đột nhiên quá rộng. Tôi bắt đầu đứng dậy.

"Anh được tha thứ chứ?" anh chân thành hỏi. Tôi gật đầu. "Anh có thể?" anh hỏi, ra hiệu về phía hai bàn chân tôi. Tôi lại gật đầu.

Anh tiến ba bước thật nhanh đúng lúc đỡ tôi đứng lên. Cả người tôi nghiêng vào anh như buổi tối đầu tiên tôi gặp anh trong thư viện Bodleian, đang đứng với dáng vẻ quý tộc bình thản trong phòng đọc Công tước Humfrey. Nhưng lần này tôi không lùi lại thật nhanh nữa. Thay vì thế tôi tự nguyện tựa hẳn vào anh, làn da anh mát lạnh dễ chịu chứ còn không khủng khiếp và lạnh ngắt.

Chúng tôi đứng im như thế một lúc lâu, giữ chặt lấy nhau. Trái tim tôi bình lặng, và hai cánh tay anh vẫn thả lỏng mặc dù hơi thở run rẩy của anh cho biết điều này không dễ dàng gì.

"Em cũng xin lỗi." Người tôi mềm mại nép vào anh, chiếc áo len của anh cào vào má tôi. "Em sẽ cố gắng giữ năng lượng của mình trong tầm kiểm soát."

"Chẳng có gì phải xin lỗi cả. Và em không nên cố gắng quá để trở thành một điều gì đó không phải là em. Em có muốn uống trà không nếu anh pha cho em?" Anh hỏi, đôi môi lướt trên đỉnh đầu tôi.

Bên ngoài, đêm tối vẫn mịt mùng. "Bây giờ là mấy giờ rồi nhỉ?"

Bàn tay Matthew xoay ra giữa hai xương bả vai của tôi để anh có thể nhìn được mặt đồng hồ. "Mới hơn ba giờ."

Tôi rên rỉ. "Em mệt quá, nhưng trà nghe có vẻ tuyệt đấy."

"Thế thì anh sẽ pha." Anh dịu dàng nới hai cánh tay tôi đang ôm quanh eo lưng anh. "Anh sẽ quay lại ngay thôi."

Không muốn để anh rời khỏi tầm mắt, tôi thơ thẩn đi theo. Anh lục qua mấy cái hộp và túi có để sẵn toàn là trà.

"Em đã bảo anh là em thích trà mà," tôi nói vẻ hối lỗi khi anh tìm được một cái túi màu nâu khác trong tủ chén, nhét sau một cái cái máy pha cà phê mà tôi hiếm khi dùng.

"Em có lựa chọn ưu tiên nào không?" Anh ra hiệu về cái giá chật ních.

"Loại trong cái túi màu đen có nhãn vàng ấy." Trà xanh dường như là lựa chọn dễ chịu nhất lúc này.

Anh bận rộn với cái ấm đun nước và bình trà. Rồi anh rót nước sôi lên những lá trà thơm ngát và đẩy một cái tách cũ đã bị sứt về phía tôi khi trà đã ngấm. Mùi hương trà xanh, va ni và quýt thật sự rất khác biệt so với Matthew, tuy thế vẫn dễ chịu.

Anh cũng rót cho mình một tách, hai cánh mũi anh phập phồng vẻ đánh giá. "Thật sự là mùi hương cũng không quá tệ," anh công nhận, rồi nhấp một ngụm nhỏ. Đấy là lần duy nhất tôi thấy anh uống một thứ gì đó khác ngoài rượu vang.

"Chúng mình sẽ ngồi đâu đây?" Tôi hỏi, ấp tách trà ấm trong hai bàn tay mình.

Matthew nghiêng đầu về phía phòng khách. "Trong đó. Chúng ta cần nói chuyện."

Anh ngồi vào một góc chiếc sofa củ kỹ thoải mái, còn tôi tự sắp xếp cho mình ở góc đối diện. Khói từ tách trà tỏa lên quanh mặt tôi, một sự gợi nhớ nhẹ nhàng đến cơn gió phù thủy.

"Anh cần phải hiểu rõ tại sao Knox lại nghĩ là em đã phá được bùa chú trên cuốn Ashmole 782," Matthew nói khi chúng tôi đã ổn định chỗ ngồi.

Tôi thuật lại cuộc nói chuyện trong căn hộ của ông hiệu trưởng. "Hắn đã nói rằng các bùa chú đó trở nên bất ổn vào thời điểm kỷ niệm ngày nó bị yểm bùa. Các phù thủy khác – những người biết rõ về pháp thuật – cũng đã cố thử phá vỡ nó, nhưng họ đều thất bại. Hắn nghĩ em chỉ là chó ngáp phải ruồi thôi."

"Một phù thủy tài năng đã giới hạn cuốn Ashmole 782, và anh nghi bùa chú này gần như không thể hóa giải được. Trước đây không có người nào cố gắng lấy nó mà đáp ứng được điều kiện của nó cả, cho dù họ có biết được nhiều phép thuật phù thủy đến mấy hay cố gắng bao nhiêu năm đi nữa." Anh nhìn đăm đắm vào lòng tách trà của mình. "Em đã làm được. Câu hỏi là làm thế nào và tại sao."

"Cái ý tưởng em có thể đáp ứng đầy đủ điều kiện của một phép yểm bùa trước khi em được sinh ra thật còn khó tin hơn cả việc nó chỉ là một sự sai lệch định kỳ. Và nếu em đã một lần đáp ứng được các điều kiện của nó, thì tại sao lại không được lần nữa?" Matthew mở miệng định nói, tôi lắc đầu. "Không, không phải tại anh."

"Knox biết phép phù thủy, và các bùa chú rất phức tạp. Hay thỉnh thoảng có thể thời gian kéo chúng ra khỏi bóng tối?" Anh tỏ vẻ không bị thuyết phục.

"Em ước mình có thể thấy được sơ đồ của tất cả những chuyện này." Cái bàn màu trắng của tôi hiện ra trong tầm mắt, với những mảnh ghép nằm trên đó. Dù tôi đã di chuyển mấy mảnh ghép – Knox, cuốn cổ thư, bố mẹ tôi – nhưng chúng vẫn từ chối không chịu hợp thành một bức hình. Giọng nói của Matthew phá ngang cơn mơ màng của tôi.

"Diana?"

"Dạ?"

"Em đang làm gì thế?"

"Không có gì," tôi đáp, quá nhanh.

"Em đang sử dụng phép thuật," anh nói, đặt tách trà của mình xuống. "Anh có thể ngửi thấy nó. Nhìn thấy nữa. Em đang tỏa sáng lờ mờ đấy."

"Em vẫn thường làm thế khi không thể giải được một câu đố - giống như lúc này." Đầu tôi cúi xuống để che giấu vẻ khó khăn khi phải nói về chuyện này. "Em thấy một cái bàn trắng và hình dung ra tất cả các mảnh ghép khác nhau. Chúng có hình dáng và màu sắc, chúng di chuyển vòng quanh cho tới khi tạo thành một sơ đồ. Khi sơ đồ ấy hình thành, chúng ngừng chuyển động để chỉ ra em đang lần theo dấu vết đúng."

Matthew đợi một lúc lâu rồi mới đáp. "Em có thường chơi trò này không?"

"Thường xuyên," tôi miễn cưỡng trả lời. "Trong lúc anh ở Scotland, em đã nhận ra nó hàm chứa nhiều phép thuật hơn em nghĩ, giống như biết rõ có người đang nhìn mình mà chẳng cần quay đầu lại vậy."

"Có một sơ đồ, em biết đấy," anh nói. "Em sử dụng phép thuật khi em không suy nghĩ."

"Ý anh là gì?" Những mảnh ghép bắt đầu nhảy nhót trên cái bàn trắng.

"Khi đang di chuyển, em không suy nghĩ gì, ít nhất là không dùng đến phần lý trí của não bộ. Khi em bơi thuyền, chạy, hoặc tập yoga, em hoàn toàn ở một nơi khác. Tâm trí em không tiếp tục kìm giữ năng lực nữa, chúng sẽ tràn ra."

"Nhưng lúc trước em đang suy nghĩ đấy thôi," tôi nói, "mà rốt cuộc cơn gió phù thủy vẫn đến?"

"À, nhưng khi đó em đang cảm thấy một xúc cảm mạnh mẽ," anh giải thích, nhoài người tới trước chống hai khuỷu tay lên đầu gối. "Điều đó luôn kiềm giữ năng lực trí tuệ đấy. Khi các ngón tay em biến thành màu xanh da trời lúc ở với Miriam rồi sau đó là với anh cũng thế. Cái bàn màu trắng này của em là một ngoại lệ của luật chơi thông thường."

"Tâm trạng và sự vận động là đủ để gây ra những mãnh lực này ư? Ai lại muốn là một phù thủy nếu chỉ cần một điều đơn giản cũng có thể khiến cho tất cả tanh bành hết?"

"Rất nhiều người đấy, anh có thể tưởng tượng được." Matthew nhìn nhanh ra hướng khác. "Anh muốn xin em làm một vài điều vì anh," anh nói. Chiếc sofa kêu cọt kẹt khi anh quay lại đối diện với tôi lần nữa. "Và anh muốn em suy nghĩ về điều đó trước khi trả lời. Em đồng ý chứ?"

"Dĩ nhiên rồi." Tôi gật đầu.

"Anh muốn đưa em về nhà."

"Em sẽ không về Mỹ đâu!"

Matthew lắc đầu. "Không phải nhà của em. Nhà của anh cơ. Em cần phải rời khỏi Oxford."

"Em đã bảo anh là em sẽ tới Woodstock mà."

"Chòi Gác Cổ chỉ là ngôi nhà của anh, Diana ạ," Matthew kiên nhẫn giải thích. "Anh muốn đưa em tới quê hương anh – tới Pháp cơ."

"Pháp ư?" Tôi gạt tóc ra khỏi mặt để nhìn anh rõ hơn.

"Các phù thủy vẫn tiếp tục muốn lấy Ashmole 782 và giữ riêng nó. Giả thuyết của họ là em đã hóa giải được bùa chú và sự xuất chúng của gia đình em là tất cả những gì giữ cho họ chưa dám động thủ. Khi Knox và các phù thủy khác phát hiện ra em không hề dùng phép thuật phù thủy để giành lấy cuốn cổ thư mà chính bùa chú đã tự mở ra cho em, thì bọn họ sẽ muốn biết làm thế nào và tại sao lại thế."

Hai mắt tôi nhắm lại trước hình ảnh đau nhói, đột ngột về bố và mẹ. "Và bọn họ sẽ không yêu cầu tử tế đâu."

"Có lẽ là không." Matthew hít một hơi thật sâu, và mạch máu nơi trán anh giật giật. "Anh đã thấy bức hình ấy, Diana ạ. Anh muốn em tránh xa Peter Knox và cái thư viện này. Anh muốn em ở dưới mái nhà của anh trong một thời gian."

"Gillian đã nói đó là các phù thủy." Khi ánh mắt tôi gặp mắt anh, tôi bỗng giật mình ngạc nhiên vì đôi đồng tử nhỏ xíu. Thường thì chúng màu đen và rất lớn, nhưng tối nay có điều gì đó thật khác lạ ở Matthew. Làn da của anh ít giống bóng ma hơn, và đôi môi bình thường tái nhợt cũng hơi có chút sắc màu. "Có đúng như thế không?"

"Anh không thể biết chắc chắn, Diana ạ. Người Hausa Nigeria tin rằng nguồn gốc sức mạnh của một phù thủy chứa đựng trong những viên đá ở dạ dày. Kẻ nào đó đã tìm kiếm chúng trong người bố em," anh nói vẻ hối tiếc. "Một phù thủy khác có lẽ là khả năng cao nhất."

Một tiếng cách thật khẽ, và đèn trên chiếc máy trả lời tự động bắt đầu nhấp nháy. Tôi rên rỉ.

"Đó là lần thứ năm các bà dì của em gọi đấy," Matthew nhận xét.

Dù cho âm lượng có vặn nhỏ đến mức nào, một ma cà rồng vẫn có thể nghe thấy được lời nhắn. Tôi bước tới cái bàn bên cạnh anh và nhấc ống nói lên.

"Con đây, con đây," tôi bắt đầu, át đi cái giọng đầy khích động của dì.

"Chúng ta đã nghĩ là con chết rồi đấy," dì Sarah nói. Ý thức về việc dì và tôi là những người nhà Bishop cuối cùng đập vào tôi một cách mạnh mẽ. Tôi có thể hình dung dì đang ngồi trong bếp, điện thoại kề bên tai và mái tóc hoang dã ôm quanh gương mặt. Dì đang già dần, và bất chấp tính ương bướng cố hữu của dì, hiện thực là tôi đang ở xa nhà và gặp nguy hiểm đã làm dì choáng váng.

"Con chưa chết. Con đang ở trong căn hộ của mình và Matthew đang ở cùng con." Tôi mỉm cười yếu ớt với anh. Nhưng anh không cười đáp lại.

"Chuyện gì đang xảy ra thế?" Cô Em hỏi từ cái máy điện thoại phụ. Sau khi bố mẹ tôi qua đời, mái tóc của cô Em đã chuyển thành màu bạc chỉ trong vòng vài tháng. Lúc ấy cô vẫn còn là một phụ nữ trẻ - chưa đến ba mươi - nhưng từ đó dường như cô Em luôn có vẻ mong manh hơn, như thể cô có thể bị một cơn gió thổi bay đi mất. Giống như dì tôi, cô rõ ràng rất lo lắng trước những gì đang xảy ra ở Oxford mà giác quan thứ sáu đã mách bảo cô.

"Con đã cố thử gọi lại cuốn cổ thư, đó là tất cả," tôi hời hợt nói, cố gắng không làm họ lo lắng hơn nữa. Matthew nhìn tôi chằm chằm vẻ không tán thành, tôi liền quay đi. Nhưng vô ích, cái nhìn chăm chăm của anh vẫn khoan vào bờ vai tôi. "Nhưng lần này nó không ra khỏi kho sách thư viện."

"Con nghĩ chúng ta đang gọi điện là vì cuốn sách đó à?" dì Sarah hỏi.

Những ngón tay dài lạnh giá túm lấy máy điện thoại và kéo nó ra khỏi tai tôi.

"Cô Bishop, tôi là Matthew Clairmont," anh quả quyết nói. Khi tôi với tới để lấy lại ống nghe; Matthew liền tóm lấy cổ tay tôi và lắc đầu, một lần, vẻ cảnh cáo. "Diana đã bị đe dọa. Bởi những phù thủy khác. Một trong bọn họ là Peter Knox."

Không cần phải là ma cà rồng mới có thể nghe thấy cơn bùng nổ ở đầu dây bên kia. Matthew thả cổ tay tôi ra và đưa điện thoại cho tôi.

"Peter Knox!" dì Sarah kêu toáng lên. Mắt Matthew nhắm lại như thể âm thanh ấy làm đau cả màng nhĩ của anh. "Hắn ta đã lảng vảng ở đó bao lâu rồi?"

"Ngay từ đầu," tôi nói, giọng do dự. "Hắn chính là lão pháp sư mặc bộ đồ màu nâu, kẻ đã cố tìm đường chui vào đầu con."

"Con đã không để hắn tiến quá xa chứ, phải không?" Dì Sarah thốt lên kinh hoàng.

"Con đã làm những gì có thể, dì Sarah ạ. Con không biết chính xác mình đang làm gì nữa, có lẽ là một chút tài phép."

Cô Em xen vào. "Con yêu, rất nhiều người trong chúng ta gặp rắc rối với Peter Knox. Quan trọng hơn cả là bố con không tin hắn – không một chút nào."

"Bố con ạ?" Sàn nhà chao nghiêng dưới chân tôi, và cánh tay của Matthew ngay lập tức ôm vòng lấy eo tôi, giữ cho tôi đứng vững. Tôi dụi mắt nhưng không thể loại bỏ được hình ảnh cái đầu méo mó và thân mình bị rạch của bố khỏi tâm trí mình.

"Diana, có chuyện gì khác đã xảy ra à?" dì Sarah nhẹ nhàng hỏi. "Peter Knox hẳn đã dọa cho con sợ mất dép, nhưng còn nhiều chuyện quá đáng hơn thế, đúng không?"

Bàn tay kia của tôi chộp lấy cánh tay của Matthew. "Có ai đó đã gửi cho con bức hình của mẹ và bố."

Im lặng kéo dài ở đầu dây bên kia. "Ôi, Diana," cô Em thì thào.

"Bức hình đó ư?" dì Sarah hỏi dứt khoát.

"Vâng," tôi thì thầm đáp.

Dì Sarah chửi thề. "Đưa máy lại cho anh ta đi."

"Anh ấy hoàn toàn có thể nghe thấy dì nói từ chỗ đang đứng," tôi nhấn mạnh. "Hơn nữa, bất cứ điều gì dì cần nói với anh ấy thì cũng có thể nói với con."

Bàn tay Matthew dịch chuyển từ eo tôi nhích ra lưng một chút. Anh bắt đầu day day nó bằng cạnh bàn tay, ấn vào những chỗ cơ căng cứng của tôi cho tới khi chúng bắt đầu thư giãn ra.

"Thế thì cả hai hãy nghe dì nói đây. Hãy tránh xa, thật xa Peter Knox ra. Và anh chàng ma cà rồng đó tốt hơn hết nên trông chừng con làm thế, hoặc dì sẽ bắt anh ta chịu trách nhiệm. Stephen Proctor là người đàn ông dễ tính nhất trên đời. Phải quá đáng lắm mới khiến được ông ấy không thích một ai đó – vậy mà ông ấy đã ghét cay ghét đắng gã pháp sư đó. Diana ạ, con phải về nhà ngay lập tức."

"Con không về đâu, dì Sarah! Con sẽ tới Pháp với Matthew." Ý tưởng kém phần hấp dẫn của dì Sarah đã thuyết phục được tôi nghe theo lời Matthew.

Im lặng.

"Pháp ư?" Cô Em thều thào nói.

Matthew đưa tay ra.

"Matthew muốn nói chuyện với cô." Tôi đưa điện thoại cho anh trước khi dì Sarah có thể phản đối.

"Cô Bishop? Cô có chương trình quản lý cuộc gọi không?"

Tôi khịt mũi. Cái máy điện thoại màu nâu treo trong tường bếp ở Madison có ổ đĩa quay số và có dây nối dài cả dặm để dì Sarah có thể đi loanh quanh trong nhà khi nói chuyện. Nó mãi mãi chỉ đơn giản quay gọi được những số điện thoại trong vùng thôi. Chương trình quản lý cuộc gọi ư? Làm sao mà có được chứ!

"Không ư? Vậy thì hãy ghi lại những số máy này." Matthew chậm rãi đọc số máy cầm tay của anh và một số khác nữa đoán chừng là số máy của ngôi nhà kia, kèm theo những hướng dẫn chi tiết về việc quay mã vùng quốc tế. "Xin cứ gọi bất cứ lúc nào."

Thế rồi hình như dì Sarah nói điều gì đó châm chích, vì tôi thấy Matthew thoáng giật mình.

"Tôi sẽ đảm bảo cô ấy được an toàn." Anh đưa máy cho tôi.

"Con cúp máy đây. Con yêu cả hai người. Đừng lo lắng gì nhé."

"Đừng có bảo chúng ta không lo lắng nữa đi!" Dì Sarah gắt mắng. "Con là con gái của chúng ta. Chúng ta hạnh phúc vì có con; nhưng cũng lo lắng cho con rất nhiều, Diana ạ, và chúng ta sẽ luôn luôn như thế đấy."

Tôi thở dài. "Con có thể làm gì để thuyết phục các dì tin là con vẫn ổn nhỉ?"

"Trước hết là nhấc máy điện thoại thường xuyên hơn," dì nói dứt khoát.

Khi chúng tôi đã chào tạm biệt nhau xong, tôi đứng cạnh Matthew, không muốn nhìn vào mắt anh. "Tất cả chuyện này là lỗi của em như dì Sarah nói đấy. Em đã luôn hành xử như một con người vô năng."

Anh quay đi và bước tới phía cuối chiếc sofa, cách xa khỏi tôi để thu mình vào một không gian nhỏ rồi thả lún mình vào đống nệm. "Cuộc mặc cả mà em đã ngã giá với phép thuật và chỗ đứng của nó trong cuộc đời em diễn ra từ khi em còn là một đứa trẻ cô đơn, sợ hãi. Bây giờ, mỗi lúc em tiến bước, nó sẽ là những khớp nối tới tương lai quyết định xem em có đặt bàn chân mình xuống đúng chỗ hay không."

Matthew bỗng giật mình khi tôi ngồi xuống cạnh anh và lặng lẽ nắm lấy tay anh, cưỡng lại sự thôi thúc muốn nói với anh rằng rồi mọi chuyện sẽ ổn cả thôi.

"Ở Pháp có lẽ em sẽ được là chính mình trong vài ngày đấy – không cần cố gắng, không phải lo lắng về việc mắc lỗi," anh tiếp tục. "Em có thể nghỉ ngơi nữa – mặc dù anh chưa bao giờ thấy em ngừng hoạt động đủ lâu cả. Em thậm chí còn cử động cả trong giấc ngủ nữa, em biết rồi còn gì."

"Em không có thời gian nghỉ ngơi, Matthew ạ." Tôi đang có những ý nghĩ thứ hai về việc rời khỏi Oxford. "Hội thảo về giả kim thuật còn chưa đầy sáu tuần nữa. Họ hy vọng em sẽ có một bài thuyết trình mở đầu. Em chỉ mới vừa bắt đầu thôi, và nếu không truy cập ở Bodleian thì em sẽ chẳng có cơ hội để hoàn thành nó đúng hạn mất."

Mắt Matthew nheo lại tỏ vẻ suy đoán. "Anh đoán rằng bài thuyết trình của em là về những bức minh họa của thuật giả kim đúng không?

"Vâng, về những hình ảnh biểu tượng truyền thống ở Anh."

"Thế thì có lẽ em sẽ không có hứng thú xem bản in từ thế kỷ mười bốn cuốn Aurora Consurgens của anh rồi. Nó là tiếng Pháp, thật đáng tiếc."

Hai mắt tôi mở lớn. Aurora Consurgens là cuốn sách bàn về những thế lực đối lập trong sự chuyển hóa của thuật giả kim – bạc và vàng, giống cái và giống đực, bóng tối và ánh sáng. Những bức minh họa của nó khá là phức tạp và hóc búa.

"Bản in sớm nhất của cuốn Aurora được biết đến là từ những năm 1420 mà?"

"Của anh từ năm 1356."

"Nhưng một cuốn sách cổ từ thời ấy sẽ không được vẽ tranh minh họa," tôi lưu ý. Việc tìm thấy một cuốn sách về thuật giả kim được vẽ minh họa từ trước năm 1400 là không thể - cũng ngang với việc phát hiện ra một chiếc Model-T Ford đỗ trên chiến trường ở Gettysburg vậy.

"Cuốn này có."

"Nó có 38 hình đúng không?"

"Không. Nó có 40." Anh cười. "Có vẻ như các sử gia trước đây đã nhầm lẫn vài chi tiết."

Các phát hiện trong lĩnh vực này rất hiếm. Đạt được bước tiến đầu tiên với một bản in có minh họa của Aurora Consurgens từ thế kỷ XIV sẽ đưa đến cơ hội để đời cho một sử gia về thuật giả kim.

"Những bức minh họa thêm ra ấy miêu tả cái gì thế ạ? Cả phần chữ viết nữa?"

"Em sẽ phải tới Pháp để khám phá."

"Thế thì chúng mình đi thôi," tôi lập tức nói. Sau mấy tuần chán nản thất vọng, việc viết phần chủ đạo trong bài thuyết trình của tôi đột nhiên trở nên khả thi.

"Em sẽ không đi vì sự an toàn của chính mình, nhưng nếu có một cuốn cổ thư dính líu vào thì được ư?" Anh lắc đầu vẻ rầu rĩ. "Quá nhiều lý tính."

"Em chưa bao giờ được biết đến là người lý tính đâu nhé," tôi thú nhận. "Khi nào thì chúng ta đi?"

"Một giờ nữa nhé?"

"Một giờ?" Đây không phải là một quyết định chóng vánh. Anh ấy đã lên kế hoạch từ lúc tôi đang say ngủ tối qua.

Mathew gật đầu. "Có một chiếc máy bay đang đợi ở đường băng do một lính không quân già người Mỹ lái. Em cần bao lâu để thu gom đồ đạc của mình?"

"Còn tùy thuộc vào những thứ em cần mang theo mình," tôi đáp, đầu óc choáng váng.

"Không cần nhiều đâu. Chúng ta sẽ không đến nơi nào khác cả. Hãy đóng hành lý quần áo ấm, và anh không tưởng tượng được em sẽ đi mà không có đôi giày chạy của mình. Sẽ chỉ có hai chúng ta thôi, cùng với mẹ anh và quản gia của bà."

Mẹ của anh ấy!

"Matthew," tôi thều thào nói, "em không biết là anh có một người mẹ."

"Ai cũng có một bà mẹ, Diana ạ," anh nói, đôi mắt xám trong sáng quay về phía tôi. "Anh có hai người mẹ. Người phụ nữ đã sinh ra anh và Ysabeau - người phụ nữ đã tái sinh anh thành ma cà rồng."

Matthew là một chuyện. Còn một ngôi nhà đầy những ma cà rồng xa lạ lại là chuyện khác. Ý thức thận trọng trước việc tiến tới một bước nguy hiểm như thế đã gạt đi ít nhiều niềm háo hức được thấy cuốn cổ thư kia. Vẻ do dự ngập ngừng của tôi chắc hẳn đã biểu lộ ra ngoài.

"Anh đã không suy nghĩ đến," anh nói, giọng nhuốm vẻ tổn thương đau đớn. "Dĩ nhiên em chẳng có lý do gì để tin tưởng Ysabeau cả. Nhưng bà đã cam đoan với anh rằng em sẽ được an toàn ở bên bà và Marthe."

"Nếu anh tin tưởng họ, thì em cũng tin." Trước sự ngạc nhiên của bản thân, tôi đã nói vậy, dù trong lòng vẫn lo lắng âm ỉ rằng anh sẽ phải hỏi họ liệu họ có định lấy đi một miếng ở cổ tôi hay không.

"Cảm ơn em," Matthew giản dị đáp. Ánh mắt anh lang thang xuống miệng tôi, và máu trong tôi râm ran đáp lại. "Em đóng gói hành lý đi, anh sẽ rửa chén tách và gọi vài cuộc điện thoại."

Khi tôi đi ngang qua anh ở phía cuối chiếc sofa, anh nắm lấy bàn tay tôi. Một lần nữa, cơn sốc do làn da lạnh giá của anh lại vấp phải sự kháng cự bởi một hơi ấm đáp trả từ phía tôi.

"Em đang làm những điều đúng đắn đấy," anh thì thầm trước khi thả tôi ra.

Hôm ấy hình như là ngày phải giặt đồ, phòng ngủ của tôi xếp đầy quần áo bẩn. Lục lọi mãi tủ quần áo tôi mới gom được vài chiếc quần đen gần giống nhau còn sạch, vài chiếc quần legging, và nửa tá áo phông dài có cổ lọ. Một chiếc túi vải buộc dây dùng đi cắm trại của Đại học Yale nổi bật ở trên nóc tủ, tôi bèn nhảy lên tóm lấy quai túi bằng một tay. Tất cả quần áo đều tìm đường chạy vào chiếc túi cũ màu xanh trắng ấy, cả mấy cái áo len và áo lông cừu chui cổ. Tôi cũng ném luôn vào đấy nào giầy thể thao, nào tất, đồ lót và vài bộ đồ tập yoga cũ. Tôi chẳng có bộ pyjama nào tươm tất ra hồn để mặc đi ngủ cả. Nhớ đến bà mẹ người Pháp của Matthew, tôi bèn thả vào một chiếc sơ mi chỉn chu và một cái quần âu.

Giọng nói trầm trầm của Matthew loáng thoáng từ phía hành lang cửa ra vào. Đầu tiên anh nói chuyện với Fred, rồi đến Marcus, và sau đó là với công ty xe taxi. Khoác túi trên vai, tôi lật đật đi vào phòng tắm. Bàn chải đánh răng, xà bông, dầu gội đầu và bàn chải tóc – tất cả đều được tống vào trong túi, cùng với một chiếc máy sấy tóc và tuýp mascara. Tôi hiếm khi dùng mấy thứ ấy, nhưng trong trường hợp này một chút trợ giúp của mỹ phẩm cũng là ý hay.

Khi đã xong xuôi, tôi quay trở lại với Matthew ở phòng khách. Anh đang lướt qua các tin nhắn trên di dộng của mình, chiếc túi đựng máy tính của tôi ở cạnh chân anh. "Chỉ thế thôi à?" anh hỏi, mắt nhìn chiếc túi buộc dây với vẻ kinh ngạc.

"Anh chả bảo là em không cần nhiều thứ mà?"

"Đúng thế, nhưng anh không quen với việc phụ nữ nghe theo lời mình khi liên quan tới hành lý. Khi Miriam đi xa cuối tuần, cô ta đóng gói hành lý đủ trang bị cho cả một đạo quân tình nguyện, còn mẹ anh thì đòi hỏi phải có một cơ số thùng xe hơi. Louisa sẽ không đi qua đường với cái thứ em đang mang đâu, chứ chưa nói đến việc rời khỏi đất nước."

"Cùng với việc không phải là người lý tính, em còn không phải là người cầu kỳ nữa cơ."

Matthew gật đầu vẻ tán dương. "Em có hộ chiếu chứ?"

Tôi chỉ tay. "Nó ở trong túi máy tính của em."

"Thế thì chúng ta có thể đi rồi," Matthew nói, mắt quét qua căn hộ lần cuối cùng.

"Bức ảnh ấy đâu rồi?" Có vẻ là sai lầm nếu cứ bỏ lại nó như thế.

"Marcus giữ nó rồi," anh đáp nhanh.

"Marcus ở đây khi nào thế?" tôi cau mày hỏi.

"Trong lúc em đang ngủ. Em có muốn anh lấy nó lại cho em không?" Ngón tay anh đặt hờ trên một phím của chiếc di động.

"Không." Tôi lắc đầu. Chẳng có lý do nào để tôi nhìn lại thứ kinh khủng ấy lần nữa cả.

Matthew xách mấy chiếc túi của tôi và tìm cách đưa tôi xuống cầu thang mà không sơ sẩy gì. Một chiếc taxi đang đợi sẵn bên ngoài cổng trường. Matthew dừng lại để trao đổi chớp nhoáng với Fred. Chàng ma cà rồng đưa cho người gác cổng một tấm danh thiếp, rồi hai người đàn ông bắt tay nhau. Vài trao đổi đã được thông qua, nhưng tôi sẽ chẳng bao giờ biết được các chi tiết cụ thể của nó. Matthew nhét tôi vào chiếc taxi, và chúng tôi lên đường, bỏ lại những ánh đèn của Oxford ở phía sau.

"Tại sao chúng mình không lấy xe của anh đi?" Tôi hỏi khi chúng tôi đã đi ra vùng ngoại ô.

"Thế này tốt hơn," anh giải thích. "Sau này không cần phải nhờ Marcus mang xe về."

Đà lắc lư của chiếc taxi ru tôi vào giấc ngủ. Dựa vào vai Matthew, tôi lơ mơ ngủ.

Ở sân bay, chúng tôi cất cánh ngay sau khi được kiểm tra hộ chiếu và người phi công điền vào các giấy tờ thủ tục. Chúng tôi ngồi đối diện nhau trên những chiếc ghế dài xếp quanh một cái bàn thấp trong suốt thời gian cất cánh. Tôi ngáp liên tục, tai ù ù khi máy bay bay lên. Khi chúng tôi đã đạt tới độ cao cần thiết, Matthew mở dây an toàn của anh và lôi ra mấy chiếc gối cùng một tấm chăn từ cái tủ phía dưới mấy ô cửa sổ.

"Chúng ta sẽ đến Pháp nhanh thôi." Anh đặt gối dựa vào phía cuối chiếc sofa, giống như cái giường đôi, và mở tấm chăn ra để đắp cho tôi. "Trong lúc ấy em nên chợp mắt một chút."

Tôi không muốn ngủ. Sự thật là tôi sợ. Bức ảnh đó như đã được khắc vào trong mi mắt tôi rồi.

Anh cúi xuống cạnh tôi, tấm chăn vắt nhẹ nhàng trên mấy ngón tay anh. "Sao thế em?"

"Em không muốn nhắm mắt lại."

Matthew ném tất cả gối xuống sàn trừ một chiếc. "Lại đây," anh nói, ngồi xuống cạnh tôi rồi vỗ nhẹ lên cái hình chữ nhật màu trắng mềm mịn hấp dẫn ấy. Tôi xoay người lại, ngả xuống mặt ghế bọc da và gối đầu lên đùi anh, duỗi dài hai chân ra. Anh quăng mép tấm chăn từ tay phải sang tay trái để trùm nó lên người tôi tạo thành những nếp gấp mềm mại.

"Cảm ơn anh," tôi thì thầm.

"Không có gì." Anh đặt ngón tay lên môi mình, rồi chạm vào môi tôi. Tôi nếm thấy vị mằn mặn. "Ngủ đi. Anh sẽ ở ngay đây thôi."

Tôi đã thực sự ngủ một giấc sâu và không mộng mị, chỉ tỉnh dậy khi những ngón tay mát lạnh của Matthew khẽ chạm vào mặt tôi và anh bảo chúng tôi chuẩn bị hạ cánh.

"Mấy giờ rồi anh?" tôi hỏi, bây giờ đã hoàn toàn mất phương hướng.

"Khoảng tám giờ," anh nói, nhìn vào đồng hồ đeo tay của mình.

"Chúng mình đang ở đâu thế?" Tôi xoay người ngồi dậy và cài dây an toàn vào.

"Bên ngoài Lyon, vùng Auvergne."

"Ngay trung tâm của đất nước ư?" Tôi hỏi, tưởng tượng ra tấm bản đồ nước Pháp. Anh gật đầu. "Có phải anh đến từ nơi đó không?"

"Anh được sinh ra và được tái sinh ở vùng lân cận. Nhà của anh – nhà của gia đình anh – cách đây khoảng một đến hai giờ đi đường. Chúng mình nên đến vào tầm giữa buổi sáng."

Chúng tôi hạ cánh ở khu vực tư nhân của sân bay địa phương náo nhiệt và trình hộ chiếu cùng với các giấy tờ du lịch để cho một viên chức nhà nước có vẻ ngoài tẻ ngắt kiểm tra. Người này khựng lại chú ý khi anh ta nhìn thấy tên của Matthew.

"Anh có thường hay du lịch thế này không?'' Chuyến bay thế này dễ chịu hơn nhiều so với việc phải bay trên một tuyến bay thương mại qua sân bay Heathrow của London hoặc Charles de Gaulle của Paris.

"Có," anh đáp mà chẳng hề tỏ ý biện hộ hay e dè. "Riêng về điều này thì anh hoàn toàn thấy vui vì mình là một ma cà rồng và có tiền để đốt mỗi khi đi du lịch."

Matthew dừng lại phía sau một chiếc Range Rover và moi từ túi ra một chùm chìa khóa. Anh mở cửa sau, xếp mấy cái túi của tôi vào xe. Chiếc Range Rover này hơi kém xa xỉ so với chiếc Jaguar của anh, và cũng kém tao nhã lịch lãm hơn, nhưng được bù lại ở trọng lượng. Giống như là đi du lịch trong một chiếc xe công vụ bọc thép vậy.

"Anh có thật sự cần chiếc xe như thế này để lái ở Pháp không?" Tôi đưa mắt nhìn những con đường bằng phẳng.

Matthew bật cười. "Em vẫn chưa thấy ngôi nhà của mẹ anh mà."

Chúng tôi lái về hướng Tây xuyên qua vùng thôn quê đẹp đẽ, rải rác những điền trang rộng mênh mông và các sườn đồi thoai thoải. Những cánh đồng và vườn nho trải dài tứ phía, và thậm chí dưới bầu trời màu thép lạnh, vùng đất này như vẫn sáng rực lên với sắc lá đang đổi màu. Một tấm biển chỉ đường để dòng chữ Clermont-Ferrand. Đó không thể là một sự trùng hợp được, dù cách phát âm có khác.

Matthew tiếp tục lái xe về phía Tây. Rồi anh đi chậm lại, rẽ vào một con đường hẹp và tạt vào vệ đường. Anh chỉ về phía xa xa. "Ở đó kìa," anh nói. "Sept-Tours."

Ngay giữa trung tâm của những ngọn đồi nhấp nhô là một đỉnh đồi bằng phẳng bị một tòa lô cốt bằng đá màu hoa hồng và vàng nâu có lỗ châu mai nằm thống trị. Bảy tòa tháp canh nhỏ hơn nằm vây quanh nó, một cổng tháp đứng trấn giữ phía trước. Đây không phải là một tòa lâu đài xinh đẹp trong truyện thần tiên nằm phơi mình dưới ánh trăng vằng vặc. Sept-Tours là một pháo đài.

"Đó là nhà ư?" Tôi thở gấp.

"Đó là nhà đấy." Matthew lấy điện thoại từ trong túi áo ra và bấm số. "Maman? Chúng con sắp đến nơi rồi."

Ở đầu bên kia nói gì đó, rồi đường dây bị ngắt. Matthew mỉm cười se sắt và lái xe quay lại đường lớn.

"Bà đang mong chúng mình à?" Tôi hỏi, cố giữ cho giọng mình không run rẩy.

"Ừ."

"Và với bà chuyện này ổn cả chứ?" Tôi không hỏi điều tôi đang thắc mắc thật sự - Anh có chắc sẽ ổn khi mang một phù thủy về nhà không? - nhưng không cần phải hỏi mới biết được.

Mắt Matthew vẫn không rời khỏi con đường. "Ysabeau không thích những sự ngạc nhiên như anh," anh nhẹ nhàng nói, bật một cái gì đó trông giống như là máy dò đường.

Chúng tôi lái xe đi giữa hai hàng cây dẻ, leo mãi cho tới khi lên đến Sept-Tours. Matthew lái xe vào giữa hai trong số bảy tháp canh và xuyên qua một khoảng sân trong được lát đá phía trước lối vào khu trung tâm của tòa kiến trúc. Bồn cây và vườn hoa nằm lấp ló hai bên. Chàng ma cà rồng đỗ xe lại.

"Sẵn sàng chưa?" anh hỏi kèm theo một nụ cười chói lóa.

"Chưa khi nào sẵn sàng như lúc này," tôi thận trọng đáp.

Matthew mở cửa xe và giúp tôi xuống. Kéo chiếc áo khoác đen, tôi ngước nhìn lên dáng vẻ đồ sộ của tòa lâu đài bằng đá. Những ranh giới ngăn cấm của lâu đài này cũng chẳng là gì so với điều đang chờ đợi tôi ở bên trong. Cánh cửa bật mở.

"Can đảm lên," Matthew nói, hôn nhẹ lên má tôi.