- Mat Ma Phu Thuy All Souls Tap 1 Deborah Harkness Chuong 6

Tùy Chỉnh

Buổi sáng ngày hôm sau tiết trời xám xịt và mang hơi hướng không khí đầu thu. Tôi chỉ muốn được bọc mình thành cái kén trong những lớp áo len và ở lì trong phòng.

Liếc nhìn ra bầu trời nặng nề u ám, tôi quyết định không ra sông chèo thuyền nữa. Thay vào đó tôi bắt đầu khởi động một chuyến chạy bộ. Tôi vẫy tay chào người gác đêm ở chỗ cửa chòi gác, ông ta nhìn tôi với vẻ nghi ngại kèm theo sau đó là một cử chỉ ra hiệu tán thành tỏ ý khích lệ.

Mỗi bước chạy dọc theo lối đi bộ lại làm cho những căng thẳng trong tôi giảm đi một chút. Khi tới lối mòn rải sỏi của khu công viên trường đại học, tôi hít thở thật sâu và cảm thấy thư giãn hẳn, sẵn sàng đón một ngày dài làm việc trong thư viện - cho dù có bao nhiêu kẻ kỳ quái tụ họp tại đó đi nữa.

Khi tôi chạy về lối cũ, người gác đêm ngăn tôi lại. "Tiến sĩ Bishop phải không?"

"Vâng?"

"Tôi rất lấy làm tiếc phải mời bạn của cô đi vào tối hôm qua, nhưng đó là quy định của trường. Lần tới nếu cô có khách, xin hãy báo cho chúng tôi biết và chúng tôi sẽ để họ lên thẳng chỗ cô."

Sự sáng suốt có được từ chuyến chạy bộ vừa rồi bốc hơi hết.

"Là đàn ônghay phụ nữ ạ?" Tôi hỏi gay gắt.

"Một phụ nữ."

Hai bờ vai tôi thả lỏng ra.

"Cô ấy có vẻ rất tốt, và tôi luôn thích người Australia. Họ thân thiện và không có vẻ... cô biết đấy..." Người gác đêm bỏ lửng câu, nhưng ý ông ta định ám chỉ thật rõ ràng. Người Australia giống như người Mỹ - nhưng không quá huênh hoang, tự cao. "Chúng tôi đã gọi lên phòng cô."

Tôi cau mày. Tôi đã tắt chuông điện thoại, bởi vì dì Sarah chẳng bao giờ chịu tính toán sự khác biệt múi giờ giữa Madison và Oxford một cách chính xác và thường gọi đến vào lúc nửa đêm. Thảo nào tôi không nghe thấy cuộc gọi đến.

"Cảm ơn đã cho tôi biết. Chắc chắn lần tới tôi sẽ báo cho ông biết trước về các vị khách," tôi hứa đấy.

Trở về phòng mình, tôi bật đèn phòng tắm và xém xét hao tổn trong hai ngày qua. Những quầng thâm xuất hiện dưới hai bên mắt hôm qua gíờ đã nở bung ra thành thứ gì đó gần giống như những vết bầm tím. Tôi kiểm tra cánh tay mình xem có vết bầm nào không, và ngạc nhiên khi không thấy bất cứ dấu vết nào. Cái siết chặt của gã ma cà rồng quá mạnh đến mửc tôi đã tưởng Clairmont hẳn phải làm vỡ vài mao mạch dưới da tôi.

Tôi tắm rồi mặc một chiếc quần tụt và cái áo cổ lọ. Màu đen sẫm làm nổi bật thêm chiều cao và giảm đến mức tối đa thể hình khỏe khoắn của tôi, lại còn khiến tôi trông giống như một xác chết, bởi thế tôi thắt thêm qua vai một chiếc áo len mềm mại màu xanh dừa. Nó làm cho mấy quầng thâm dưới mắt tôi trông xanh hơn, nhưng ít nhất là tôi không còn trông như người chết nữa. Mái tóc tôi có nguy cơ sẽ dựng đứng trên đầu và kêu tanh tách mỗi khi tôi di chuyển. Giải pháp duy nhất là bới ngược ra sau thành một túm lộn xộn thả sau gáy.

Chiếc xe đẩy của Clairmont đầy ứ những tập cổ thư, và tôi sẵn sàng chạm mặt hắn ta ở khu phòng đọc Công tước Humfrey. Tôi đi đến bàn gọi sách với đôi vai bạnh ra hiên ngang.

Một lần nữa viên quản lý và các nhân viên thư viện lại đang xì xào bàn tán như những chú chim bồn chồn lo lắng. Lần này hoạt động của họ tập trung vào khu tam giác giữa bàn gọi sách, những cuốn danh mục sách, và văn phòng giám sát. Họ mang những chồng hộp và đẩy những xe chở đầy cổ thư đi dưới cặp mắt cảnh giác của mấy cái máng xối nước hình đầu thú và đi vào ba gian đầu tiên của khu bàn đọc cổ xưa.

"Cảm ơn Sean." Giọng nói trầm trầm, lịch thiệp của Clairmont phảng phất tít sâu phía trong các phòng đọc.

Tin tốt là tôi sẽ không còn phải chia sẻ bàn đọc với một con ma cà rồng nữa.

Cón tin xấu là tôi không thể bước vào hoặc rời khỏi thư viện - hay thậm chì là gọi sách hoặc một tập cổ thư - mà không bị Clairmont giám sát từng động thái. Và hôm nay hắn đã phòng bị trước.

Một cô gái nhỏ xíu đang chất đống lên các bài luận văn và các tập file tài liệu ở chỗ hốc tường thứ hai. Cô ta mặc một chiếc áo len rộng lùng thùng màu nâu và dài gần tới đầu gối. Khi cô ta rẽ ngoặt, tôi giật mình nhìn thấy một người lớn phát triển đầy đủ. Đôi mắt cô ta có màu hổ phách và đen, nó lạnh lẽo như sương giá.

Dù không chạm vào, nhưng làn da xanh tái, sáng mờ mờ và mái tóc bóng láng dày khác thường của cô ta cũng tố giác cô ta là một ma cà rồng. Những đường sóng tóc uốn lượn như rắn bao quanh gương mặt cô ta và xõa xuống hai vai. Cô ta tiến một bước về phía tôi, chẳng tốn công che giấu, những chuyển động nhanh nhẹn, chắc chắn, và ném cho tôi một cái liếc thoáng qua đầy khinh thường. Đây rõ ràng không phải là nơi cô ta muốn có mặt, và cô ta đổ lỗi do tôi.

"Miriam!" Tiếng Clairmont gọi nghe thật êm ái, hắn bước ra lối đi trung tâm. Hắn hơi khựng lại, và một nụ cười lịch sự nở trên môi. "Tiến sĩ Bishop đây mà. Chúc buổi sáng tốt lành," Hắn luồn mấy ngón tay qua mái tóc, cử chỉ đó làm cho nó trông rối bời một cách nghệ thuật hơn. Tôi ngượng ngập vuốt nhẹ lên tóc mình và vén một lọn tóc lơ thơ ra sau tai.

"Chào buổi sáng, giáo sư Clairmont. Lại gặp anh ở đây rồi."

"Đúng vậy. Nhưng hôm nay tôi sẽ không nhập hội với cô ở khu Selden End nữa. Họ đã thu xếp phòng đọc cho chúng tôi ở đây, chúng tôi sẽ không làm phiền tới ai nữa."

Nữ ma cà rồng đập nhẹ một chồng luận văn lên trên mặt bàn đọc.

Clairmont cười. "Cho phép tôi giới thiệu người đồng sự của tôi, tiến sĩ Miriam Shephard. Miriam, đây là tiến sĩ Diana Bishop."

"Chào tiến sĩ Bishop," Miriam nói vẻ lạnh lùng, rồi đưa tay về phía tôi. Tôi đón lấy và cảm thấy một sự trái ngược giữa bàn tay nhỏ xíu, lạnh ngắt của cô ta với bàn tay ấm áp của mình. Tôi định rút tay lại thì bàn tay cô ta xiết chặt hơn, dồn các khớp xương của tôi lại với nhau. Khi cuối cùng cô ta cũng thả ra, tôi đã phải kìm mình không giũ tay ngay lúc đó.

"Chào tiến sĩ Shephard." Cả ba chúng tôi đứng đó vẻ lúng túng. Bạn sẽ hỏi một ma cà rồng câu gì trước tiên vào buổi sáng? Tôi đành trở lại với lối nói vô vị tẻ nhạt của con người: "Tôi thật sự phải làm việc rồi."

"Chúc một ngày làm việc hiệu quả," Clairmont nói, cái gật đầu chào của hắn cũng lạnh lùng ngang với lời chào hỏi của Miriam.

Ông Johnson xuất hiện bên cạnh tôi, tay bưng sẵn chồng hộp nhỏ màu xám mà tôi yêu cầu.

"Hôm nay chúng tôi đã sắp chỗ cho cô ở A4 rồi, tiến sĩ Bishop," ông ta nói, một bên má phồng lên. "Tôi sẽ mang mấy thứ này lại chỗ cô." Đôi vai của Clairmont quá rộng nên tôi không thể nhìn vòng qua người hắn để xem có các cuốn cổ thư ở trên bàn hắn không. Tôi đè nén tính hiếu kỳ và đi theo viên quản lý tới chỗ ngồi quen thuộc của mình ở khu Selden End.

Dù không có Clairmont ngồi đối diện, tôi vẫn nhận thức rõ rệt sự hiện diện của hắn trong khi lôi bút chì ra và bật máy tính lên. Lưng hướng về phía phòng trống, tôi nhặt cái hộp đầu tiên lên, lôi ra cuốn cổ thư bìa da và đặt nó vào giá đọc.

Công việc quen thuộc là đọc và ghi chép đã nhanh chóng thu hút sự tập trung chú ý của tôi. Cuốn cổ thư đầu tiên được tôi hoàn thành trong vòng chưa tới hai giờ. Vẫn chưa tới mười một giờ. Vẫn còn thời gian để đọc một cuốn khác trước khi ăn trưa.

Cuốn cổ thư ở trong chiếc hộp kế tiếp nhỏ hơn cuốn trước, nhưng nó có những phác họa thú vị về bộ dụng cụ của thuật giả kim và các mẩu thông tin về công thức hóa học mà khi đọc nó, tôi thấy nó giống như một sự kết hợp khủng khiếp nào đó giữa cuốn Nấu ăn vui vẻ và một tập ghi chép công thức của kẻ chuyên đi đầu độc. "Lấy bình đựng thủy ngân đun sôi trên lửa trong ba giờ," một trong các hướng dẫn bắt đầu, "và khi nó đã kết hợp với Đứa trẻ can đảm, hãy giữ lấy nó và để nó thối rữa cho tới khi Quạ Đen mang nó đi tới chỗ cái chết." Những ngón tay tôi lướt nhanh trên bàn phím, tăng thêm đà làm việc trong khi từng phút tích tắc trôi qua.

Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thẩn ngày hôm nay sẽ bị các sinh vật khác thường kia nhìn chòng chọc. Nhưng khi đồng hồ điểm một giờ, tôi gần như vẫn một mình trong khu Selden End. Độc giả duy nhất khác là một sinh viên đã tốt nghiệp đeo chiếc khăn quàng cổ sọc đỏ, trắng và xanh dương của trường Keble. Anh ta ủ ê nhìn chằm chằm vào một chồng sách hiếm mà không hề đọc chúng và cứ cắn móng tay mình thỉnh thoảng kêu đánh tách một cái.

Sau khi viết đầy hai mảnh phiếu yêu cầu mới và đóng hộp mấy cuốn cổ thư của mình, tôi rời khỏi chỗ ngồi để đi ăn trưa, cảm thấy mãn nguyện với thành quả làm việc buổi sáng. Từ một chỗ ngồi trông không mấy thoải mái gần chiếc đồng hồ cổ, Gillian Chamberlain nhìn tôi chăm chăm đầy ác ý khi tôi đi ngang qua. Hai nữ ma cà rồng ngày hôm qua phóng những trụ băng lạnh lẽo vào da tôi, và gã quỷ ở thư viện âm nhạc đã kéo thêm hai gã quỷ khác đến. Cả ba đang tháo tung một cái máy đọc vi phim, các bộ phận của chiếc máy rải rắc vương vãi khắp xung quanh và một cuộn phim đang bung ra, bị bỏ chỏng trơ trên sàn nhà dưới chân chúng.

Clairmont và trợ lý của hắn vẫn còn bám trụ gần chỗ bàn gọi sách của phòng đọc. Hắn từng tuyên bố rằng những sinh vật này tụ tập quanh tôi, chứ không phải hắn. Nhưng thái độ của họ ngày hôm nay lại cho thấy điều ngược lại - tôi thầm nghĩ vẻ đắc thắng.

Trong khi tôi trả lại các cuốn cổ thư, Matthew Clairmont nhìn tôi vẻ hờ hững. Dù đã nỗ lực rất nhiều, nhưng tôi vẫn không kìm được mình thôi để ý đến hắn ta.

"Tất cả chỗ này xong rồi chứ?" Sean hỏi.

"Ừ. Vẫn còn hai tập nữa ở chỗ bàn tớ. Nếu tớ có thể có những cuốn này nữa thì tuyệt quá." Tôi chìa mấy tờ phiếu yêu cầu ra. "Cậu có muốn ăn trưa cùng tớ không?"

"Valerie vừa mới ra ngoài rồi. Tôi e là mình bị kẹt ở đây một lúc nữa," anh chàng nói vẻ nuối tiếc.

"Ừ, thôi lần sau vậy." Siết chặt ví tiền trong tay, tôi quay người chuẩn bị đi.

Giọng nói trầm trầm của Clairmont làm tôi hơi khựng lại. "Miriam, đến giờ ăn trưa rồi."

"Tôi không đói," cô ta đáp lại bằng một giọng nữ cao du dương trong trẻo chứa đựng cả cơn giận đang sôi sục.

"Không khí trong lành sẽ củng cố thêm khả năng tập trung của cô đấy." Dấu hiệu mệnh lệnh trong giọng Clairmont không còn gì để bàn cãi nữa. Miriam thở dài thườn thượt, thả cạch cái bút chì lên mặt bàn đọc, và trồi ra từ trong bóng tối đi theo sau tôi.

Bữa ăn thường lệ của tôi là hai mươi phút ghé vào quán cà phê trên tầng hai của hiệu sách Blackwell gần đó. Tôi mỉm cười với ý nghĩ Miriam sẽ phải tự làm mình bận rộn trong suốt khoảng thời gian đó, kẹt trong Blackwell nơi các khách du lịch túm tụm lại để ngắm các tấm bưu thiếp, thấy được mùi khác biệt giữa những cuốn sách hướng dẫn của Oxford và khu vực tội phạm đích thực.

Tôi kiếm được một chiếc sandwich và ít trà rồi chen lấn tới góc xa nhất trong căn phòng đông nghẹt, ngồi giữa một thành viên có nét mặt ngờ ngợ ở khoa Lịch sử đang đọc báo và một sinh viên đang cùng lúc ôm cả một chiếc MP3, một chiếc di động và một cái máy vi tính.

Sau khi ăn xong cái sandwich, tôi nâng tách trà trên tay và liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi cau mày. Một trong những gã yêu tinh lạ mặt ở khu Công tước Humfrey đang thơ thẩn chỗ cổng thư viện và nhìn lến cửa sổ hiệu Blackwell.

Có thứ gì đó chạm nhẹ lên gò má tôi, dịu dàng và thoáng qua như cảm giác của một nụ hôn. Tôi ngẩng lên thì thấy khuôn mặt của một nữ quỷ khác. Cô ta thật xinh đẹp, với những đường nét lôi cuốn trái ngược nhau - miệng quá rộng so với khuôn mặt thanh tú, đôi mắt màu nâu sô-cô-la quá gần nhau lại có kích cỡ to lớn quá mức, mái tóc có màu quá sáng so với làn da màu mật ong.

"Tiến sĩ Bishop phải không?" Thứ trọng âm Australia của cô ta khiến sống lưng tôi buốt giá như bị những ngón tay lạnh lẽo lướt qua.

"Vâng," tôi thì thầm đáp, liếc nhanh xuống cầu thang. Mái đầu đen của Miriam chẳng thấy tăm hơi đâu. "Tôi là Diana Bishop."

Cô ta cười. "Tôi là Agatha Wilson. Và người bạn của cô ở tầng dưới không biết tôi có mặt ở đây đâu."

Đó là một cái tên lỗi mốt không thích hợp với một người chỉ hơn tôi khoảng mười tuổi, và khá là sành điệu nữa. Dù vậy, tên cô ta nghe cũng quen quen, và tôi lờ mờ nhớ là đã nhìn thấy cái tên này trong một tờ tạp chí thời trang.

"Tôi có thể ngồi chứ?" cô ta hỏi, ra hiệu về chỗ ngồi vừa bỏ trống của nhà sử học nọ.

"Tất nhiên rồi," tôi ậm ừ.

Hôm thứ Hai tôi đã gặp một con ma cà rồng. Ngày thứ Ba một phù thủy đã cố tìm cách len lỏi vào đầu tôi. Còn ngày thứ Tư, rõ ràng là ngày của quỷ rồi.

Mặc dù họ đeo bám tôi khắp xung quanh trường, nhưng thậm chí hiểu biết của tôi về quỷ còn ít hơn là hiểu biết về ma cà rồng. Một vài người có vẻ thông thạo về các sinh vật này, còn dì Sarah chẳng bao giờ có thể trả lời các thắc mắc của tôi về quỷ cả. Theo như miêu tả của dì, thì quỷ được cấu thành như là một tầng lớp tội phạm dưới đáy nấc thang tiến hóa. Sự lanh lợi và óc sáng tạo thừa thãi có thể dẫn họ đi tới dối trá, trộm cắp, lừa đảo, và thậm chí là giết người, bởi vì họ cảm thấy mình có thể thoát ra khỏi những rắc rối đó. Thậm chí còn có nhiều sự phiền hà hơn nữa, theo như dì Sarah nói, tùy thuộc vào điều kiện sinh sống nơi họ được sinh ra. Không thể nói trước được nơi nào hay khi nào một yêu tinh xuất hiện, vì đặc thù cha mẹ họ có thể là con người. Đối với dì tôi thì đây chỉ là việc pha trộn các vị trí tồn tại bên lề nấc thang sinh tồn mà thôi. Dì quý trọng dòng dõi và truyền thống gia đình của một phù thủy, và dì không chấp nhận sự bất ổn ma quái.

Ban đầu Agatha Wilson hài lòng với việc ngồi lặng yên bên cạnh, quan sát tôi nhâm nhi tách trà. Thế rồi cô ta bắt đầu nói những ngôn từ như xoáy lốc làm tôi choáng váng. Dì Sarah thường bảo rằng nói chuyện với quỷ là điều không thể, vì họ thường bắt đầu ngay ở giữa câu chuyện.

"Bởi vậy một nguồn năng lượng mạnh mẽ chắc chắn sẽ hấp dẫn chúng ta," cô ta nói không đầu không cuối, cứ như là tôi đã hỏi cô ta một câu gì đó vậy. "Các phù thủy ở Oxford trong lễ hội Mabon cứ nói huyên thuyên như thể thế gian này không có nhan nhản lũ ma cà rồng chuyên nghe lỏm mọi thứ ấy." Cô ta im bặt. "Chúng tôi đã không dám tin là mình sẽ thấy lại nó một lần nữa "

"Thấy gì cơ?" tôi khẽ hỏi.

"Cuốn sách," cô ta hạ thấp giọng để giãi bày.

"Cuốn sách?" tôi nhắc lại, giọng chán nản.

"Phải. Sau những gì các phù thủy làm với nó, chúng tôi không dám nghĩ là mình còn được thấy nó lần nữa."

Đôi mắt nữ quỷ chú ý vào một điểm ở giữa phòng. "Dĩ nhiên, cô cũng là một phù thủy. Có lẽ là sai lầm khi nói với cô. Dù tôi đã nghĩ cô cũng như tất cả các phù thủy có thể khám phá ra người xưa đã làm chuyện đó như thế nào. Và giờ thì có đây rồi," cô ta nói vẻ buồn bã, giơ lên một tờ báo bị bỏ đi và đưa cho tôi.

Dòng tiêu đề nhạy cảm lập tức đập ngay vào mắt tôi: MA CÀ RỒNG THẢ RÔNG Ở LONDON. Tôi vội vàng đọc.

Cảnh sát thủ đô không có manh mối nào cho vụ giết hai người đàn ông gây hoang dư luận ở Westminster. Các thi thể này của Daniel Bennett, 22 tuổi, và Jason Enright 26 tuổi, được tìm thấy trong một ngõ hẻm đằng sau quán bar White Hart trên phố Alban vào sáng sớm Chủ nhật, do chính chủ quán - Reg Scott phát hiện. Cả hai người đàn ông đều bị tổn thương động mạch cảnh và vô số vết cắn trên cổ, hai cảnh tay và thân người. Khám nghiệm pháp y cho biết mất máu ồ ạt là nguyên nhấn dẫn đến cái chết, mặc dù tại hiện trường không hề tìm thấy vết máu nào.

Các cấp có thẩm quyền điều tra "những con ma cà rồng giết người" này - cư dân đã gán cho chúng cái tên như thế - đã tìm kiếm lời khuyên của Peter Knox, tác giả các cuốn sách bán chạy nhất về những điều huyền bí thời hiện đại, bao gồm cuốn Các vấn đề đen tối: Ác quỷ thời hiện đại và Pháp thuật lên ngôi: Cần phải dành chỗ cho sự Bí ẩn trong kỷ nguyên khoa học. Knox đã được các cơ quan điều tra trên toàn thế giới tới xin tư vấn cho các vụ bị nghi ngờ là giết người hàng loạt và giết người theo nghi thức ma quỷ.

"Không có bằng chứng nào cho thấy đây là những kẻ giết người theo nghi thức tôn giáo," Knox nói với các phóng viên báo chí tại một cuộc họp báo. "Cũng không có gì cho thấy đây là một kẻ giết người hàng loạt cả," ông ta thêm, bất chấp các án mạng tương tự của Christiana Nilsson ở Copenhagen mùa hè năm ngoái và Sergei Morozov ở St. Petersburg vào mùa thu năm 2007. Nhấn mạnh thêm, Knox phán đoán rằng vụ án ở London có thể dính líu đến một hoặc những kẻ sát nhân thích bắt chước một cách mù quáng.

Nhưng những người dân lo ngại đã thành lập một đội tuần tra công cộng và cảnh sát địa phương đã phát động chiến địch nhà nhà an toàn để trả lời cho các thắc mắc, đồng thời hỗ trợ và hướng dẫn người dân. Chính quyền khuyến cáo người dân London đề cao cảnh giác cho an toàn của họ, đặc biệt là về đêm.

"Đó chỉ là công việc của một biên tập báo cần kiếm ra một câu chuyện," tôi nói, trả tờ báo lại cho nữ yêu tinh. "Cách nhấn mạnh này là để câu mồi cho nỗi sợ hãi của con người thôi."

"Bọn họ ư?" cô ta hỏi, đưa mắt liếc quanh phòng. "Tôi không chắc đâu. Bọn họ chẳng bao giờ hiểu về ma cà rồng. Chúng chỉ cách loài vật một bước chân thôi." Miệng Agatha Wilson kéo căng ra hết mức trong một biểu cảm chua chát. "Và cô nghĩ chúng tôi là những sinh vật không lường trước được. Cho dù bất cứ ai trong chúng ta cũng sẽ gặp nguy hiểm nếu khiến con người chú ý đến."

Đây quả là cuộc trò chuyện quá mức về phù thủy và ma cà rồng ở giữa chốn công cộng thế này. Mặc dù, cậu sinh viên nọ vẫn đeo tai nghe, và tất cả các vị khách vãng lai khác đều đang đắm chìm trong những suy nghĩ riêng của họ hoặc tâm trí họ đang ở sát bên những người bạn cùng dùng bữa với mình.

"Tôi không biết bất kỳ điều gì về cuốn cổ thư hay về việc các phù thủy đã làm với nó, cô Wilson ạ. Tôi cũng không có nó đâu," tôi vội nói, đề phòng trường hợp cô ta cũng nghĩ tôi có thể đã ăn cắp nó.

"Hãy gọi tôi là Agatha." Cô ta tập trung nhìn vào hoa văn trên tấm thảm. "Lúc này thư viện đang giữ nó. Họ đã bảo cô trả lại nó à?"

Cô ta ám chỉ các phù thủy ư? Hay ma cà rồng? Hay thủ thư? Tôi chọn lựa các "bị can khả nghi nhất".

"Phù thủy à?" tôi thì thầm.

Agatha gật đầu, ánh mắt cô ta phiêu du khắp căn phòng.

"Không. Khi tôi dùng nó xong, tôi chỉ đơn giản là trả lại nó về kho của thư viện thôi."

"A, kho sách," Agatha ranh mãnh nói. "Mọi người nghĩ thư viện chỉ là một tòa nhà thôi, nhưng nó không phải vậy."

Một lần nữa tôi nhớ đến cơn rùng mình ma quái mà tôi đã cảm thấy sau khi Sean đặt cuốn cổ thư lên băng tải.

"Thư viện là thứ mà các phù thủy lúc nào cũng thèm muốn," cô nàng tiếp tục. "Nhưng cuốn sách ấy không thuộc về các cô. Phù thủy không nên giành lấy quyền quyết định giữ nó ở đâu và ai là người được xem nó."

"Có điều gì đặc biệt ở cuốn cổ thư này vậy?"

"Cuốn sách đó giải thích vì sao chúng ta có mặt ở đây," cô ta nói, giọng nói dường như có phần tuyệt vọng. "Nó kể câu chuyện của chúng ta - mở đầu, đoạn giữa, thậm chí là kết thúc nữa. Quỷ chúng tôi cần hiểu vị trí của mình trong thế giới này. Nhu cầu của chúng tôi còn lớn hơn cả của phù thủy hay ma cà rồng nữa kia." Lúc này cô ta đã không còn rối trí nữa. Cô ta giống như một chiếc camera thường xuyên bị mất tiêu điểm cho tới khi có ai đó đến và vặn lại ống kính vào đúng khớp thẳng hàng.

"Các vị biết vị trí của mình trong thế giới này mà," tôi bắt đầu. "Có bốn loài sinh vật - con người, quỷ, ma cà rồng, và phù thủy."

"Và quỷ đến từ đâu? Chúng tôi được tạo ra như thế nào? Tại sao chúng tôi lại ở đây?" Đôi mắt nâu của cô ta chớp chớp. "Các người có biết sức mạnh của mình đến từ đâu không? Cô biết không?"

"Không," tôi thì thầm đáp, và lắc đầu.

"Không ai biết cả," cô ta đăm chiêu nói. "Mỗi ngày chúng tôi đều băn khoăn tự hỏi. Ban đầu con người nghĩ quỷ là các thiên thần hộ mệnh. Sau đó họ tin chúng tôi là các vị thần, tạo ra trái đất và tội lỗi từ những đam mê của chính chúng tôi. Con người ghét chúng tôi bởi vì chúng tôi khác biệt, họ bỏ rơi những đứa con của họ nếu chúng là những quỷ. Họ buộc tội chúng tôi chiếm giữ linh hồn họ và khiến họ điên cuồng mất trí. Quỷ thông minh nổi bật khác thường nhưng chúng tôi không sa đọa, xấu xa - không giống như ma cà rồng." Giọng cô ta giờ đây rõ ràng đang giận dữ, mặc dù nó chẳng bao giờ to hơn tiếng lầm bầm trong miệng. "Chúng tôi chẳng bao giờ khiến ai điên loạn cả. Thậm chí còn hơn cả phù thủy, chúng tôi chính là nạn nhân của nỗi sợ hãi và lòng đố kỵ của loài người."

"Phù thủy cũng có những truyền thuyết xấu xa mà họ phải chịu đựng và đấu tranh đấy chứ," tôi nói, lòng nghĩ đến những cuộc săn lùng phù thủy và các cuộc hành quyết tiếp nối sau đó.

"Phù thủy sinh ra phù thủy. Ma cà rồng tạo ra các ma cà rồng khác. Các người có những câu chuyện gia đình và ký ức để an ủi khi thấy cô đơn hay mất phương hướng. Chúng tôi chẳng có gì ngoài những câu chuyện cổ tích được loài người kể lại. Không nghi ngờ gì khi có quá nhiều yêu tinh bị loạn trí như thế. Hy vọng duy nhất của chúng tôi là được lướt qua các yêu tinh khác một ngày nào đó và biết rằng chúng tôi giống họ. Con trai tôi là một trong những kẻ may mắn. Nathaniel có một người mẹ là quỷ, một người có thể thấy được các dấu hiệu và giúp nó hiểu được đó là gì." Cô ta nhìn ra hướng khác một lúc để lấy lại bình tĩnh. Khi ánh mắt cô ta và tôi gặp nhau lần nữa, chúng trông thật buồn. "Có thể con người nói đúng. Có thể chúng tôi bị ma quỷ ám. Tôi thấy những thứ ấy, Diana ạ. Những điều tôi không nên thấy."

Yêu tinh có thể là những kẻ nhìn xa trông rộng. Ai biết được liệu những gì họ thấy có đáng tin cậy không - giống như những hình ảnh mà phù thủy có?

"Tôi nhìn thấy máu và nỗi sợ hãi. Tôi thấy cô," cô ta nói, đôi mắt lại thất thần. "Đôi lúc tôi thấy gã ma cà rồng đó. Hắn ta muốn cuốn sách này từ lâu lắm rồi. Nhưng thay vào đó hắn đã tìm thấy cô. Sự hiếu kỳ."

"Tại sao Matthew Clairmont lại muốn cuốn sách ấy?"

Agatha rùng mình. "Ma cà rồng và phù thủy không chia sẻ suy nghĩ với chúng tôi, thậm chí cả khi gã ma cà rồng của cô có nói cho chúng tôi điều hắn biết, và dù cho hắn thích quỷ hơn hầu hết đồng loại của hắn. Quá nhiều bí mật, và quá nhiều con người thông minh ngày nay. Họ sẽ phát hiện ra nếu chúng ta không cẩn thận. Loài người thích sức mạnh - và cũng thích những bí mật."

"Anh ta không phải là gã ma cà rồng của tôi." Tôi đỏ mặt.

"Cô chắc chứ?" cô ta hỏi, mắt nhìn chăm chăm vào màu vàng crom trên chiếc máy pha cà phê như thể đó là một tấm gương phép thuật vậy.

"Chắc," tôi đáp ngay.

"Một cuốn sách nhỏ có thể nắm giữ một bí mật lớn - thứ có thể thay đổi cả thế giới. Cô là một phù thủy. Cô biết ngôn ngữ có sức mạnh của nó. Và nếu gã ma cà rồng của cô biết bí mật này, hắn sẽ không cần cô nữa đâu." Đôi mắt nâu của Agatha lúc này đầy thương cảm và ấm áp.

"Matthew Clairmont có thể tự mình yêu cầu lấy cuốn cổ thư nếu anh ta muốn nó đến thế." Ý nghĩ hắn ta có thể đang làm việc đó ngay lúc này khiến tôi thấy ớn lạnh một cách khó hiểu.

"Khi cô lấy lại nó," cô ta nài nỉ, tóm chặt lấy cánh tay tôi, "hãy hứa với tôi rằng phù thủy các cô không phải là người duy nhất cần biết các bí mật của nó nhé. Quỷ cũng là một phần của câu chuyện. Hứa với tôi đi."

Tồi cảm thấy một cơn hoảng hốt thoảng qua trong cái đụng chạm của cô ta, và đột nhiên cảm giác được hơi nóng của căn phòng cùng sức ép của mọi người trong đó. Theo bản năng tôi tìm kiếm một lối thoát gần nhất trong khi tập trung vào nhịp thở của mình, cố kềm nén những biểu hiện đầu tiên của phản ứng hoảng sợ. "Tôi hứa," tôi do dự lẩm bẩm đáp, không chắc điều mình đang đồng ý là gì.

"Tốt," cô ta lơ đãng nói, rồi thả cánh tay tôi ra. Đôi mắt cô ta lại lơ đãng phiêu du. "Cô thật tốt vì đã nói chuyện với tôi." Agatha lại một lần nữa nhìn chăm chú xuống tấm thảm. "Chúng ta sẽ gặp lại nhau. Hãy nhớ nhé, một vài lời hứa quan trọng hơn những lời hứa khác đấy."

Tôi thả chiếc ấm và tách trà vào cái khay nhựa màu xám đựng rác rồi vứt cái túi đựng bánh sandwich đi. Khi tôi ngoái lại liếc nhìn, Agatha đang đọc mục thể thao trên tờ nhật báo London nhà sử học bỏ lại.

Trên đường ra khỏi Blackwell, tôi không thấy Miriam đâu, nhưng tôi có thể cảm thấy ánh mắt của cô ta.

~*~

Khu Selden End đã đầy những con người bình thường trong khi tôi ra ngoài, tất cả bọn họ đều đang bận rộn với công việc và hoàn toàn mù tịt trước cái hội nghị những sinh vật khác người đang ở quanh họ. Thật ghen ti với sự ngu dốt của họ, tôi cầm một cuốn cổ thư lên, quyết tâm tập trung, nhưng thay vì thế tôi lại thấy tâm trí mình đang suy nghĩ về cuộc trò chuyện ở Blackwell và các sự kiện trong mấy ngày qua. Ở mức độ trực diện thì những hình ảnh minh họa trong Ashmole 782 dường như không liên quan gì tới những điều Agatha Wilson vừa nói. Và nếu Matthew Clairmont cùng nữ yêu tinh này quá quan tâm tới cuốn cổ thư ấy đến vậy, thì tại sao họ không yêu cầu mượn nó?

Tôi nhắm mắt, nhớ lại những chi tiết trong cuộc đối mặt với cuốn cổ thư và cố gắng tạo ra phông nền nào đó cho các sự kiện mấy ngày qua bằng cách làm cho tâm trí mình trống rỗng và tưởng tượng ra vấn đề như là một trò chơi ghép hình trên một chiếc bàn trắng tinh, rồi sau đó sắp xếp lại các hình khối có màu sắc vào. Nhưng cho dù ở chỗ nào đi nữa, vẫn chẳng có hình ảnh nào hiện lên rõ ràng cả. Nản chí, tôi đẩy cái ghế bành ra khỏi bàn và đi về phía lối ra.

"Cậu có mượn quyển nào nữa không?" Sean hỏi khi anh chàng nhận mấy cuốn cổ thư từ tay tôi. Tôi đưa cho anh ta một tệp phiếu yêu cầu vừa mới điền vào. Anh chàng mỉm cười trước độ dày của tệp phiếu đó nhưng chẳng nói lời nào.

Trước khi rời đi, tôi cần làm hai việc. Đầu tiên là vấn đề xã giao lịch sự đơn giản thôi. Tôi không chắc bọn họ làm thế nào, nhưng những ma cà rồng này đã giữ cho tôi khỏi bị quẫn trí trước một dòng bất tận các sinh vật khác ở khu Selden End. Phù thủy và ma cà rồng không thường có cơ hội để cảm ơn nhau, nhưng Clairmont đã bảo vệ tôi hai lần trong hai ngày qua. Tôi không muốn là kẻ vô ơn, hoặc có đức tin mù quáng như dì Sarah và bạn bè của dì ở hội đồng phù thủy Madison.

"Giáo sư Clairmont?"

Gã ma cà rồng ngước nhìn lên.

"Cảm ơn anh," tôi nói một cách giản dị, bắt gặp cái nhìn chòng chọc của hắn và giữ nguyên cho đến khi hắn phải quay nhìn đi nơi khác.

"Không có gì," hắn lẩm bẩm, vẻ ngạc nhiên trong giọng nói.

Việc thứ hai được suy tính kỹ càng hơn. Nếu Matthew Clairmont cần tôi, thì tôi cũng cần hắn. Tôi muốn hắn cho tôi biết tại sao Ashmole 782 lại thu hút sự chú ý nhiều đến thế.

"Có lẽ anh nên gọi tôi là Diana," tôi nói nhanh, trước khi lại mất tinh thần.

Matthew Clairmont mỉm cười.

Tim tôi ngừng đập trong một phần mấy giây. Đây không phải làm một nụ cười mỉm lịch sự mà giờ tôi đã quen thấy. Đôi môi hắn nhoẻn lên, khiến toàn bộ khuôn mặt rạng rỡ hẳn. Chúa ơn, hắn đẹp quá, tôi lại thầm nghĩ, thoáng chút sững sờ.

"Được thôi," hắn nhẹ nhàng đáp; "nhưng thế thì cô cũng phải gọi tôi là Matthew."

Tôi gật đầu đồng ý, tim vẫn đập ngắt quãng thất thường. Có thứ gì đó lan tỏa khắp thân thể tôi, nới lỏng hết dấu vết băn khoăn lo lắng còn vương lại sau cuộc gặp gỡ không mong đợi với Agatha Wilson.

Mũi Matthew hơi hếch lên nhạy bén. Nụ cười của hắn rộng mở hơn. Cho dù cơ thể tôi đang phản ứng thế nào, hắn đã đánh hơi thấy cả. Còn gì nữa, hắn đã nhận ra điều đó rồi.

Tôi đỏ cả mặt.

"Chúc một buổi tối vui vẻ, Diana." Giọng hắn nấn ná chỗ tên tôi, làm nó nghe thật khêu gợi và lạ lẫm.

"Chúc ngủ ngon, Matthew," tôi đáp lại, yếu thế rút lui vội vàng.

Hôm ấy, chèo thuyền trên con sông vắng lặng lúc trời chiều chạng vạng, tôi thấy có một cái bóng mờ màu khói thấp thoáng trên con đường chạy song song với dòng sông, luôn luôn ở phía trước tôi một chút, giống như một ngôi sao tối sẫm đang dần lôi tôi về.