- Mat Ma Phu Thuy All Souls Tap 1 Deborah Harkness Chuong 7

Tùy Chỉnh

2:15, tôi choàng dậy bởi cảm giác kinh hoàng của người chết đuối. Quất vào tôi từ trong chỗ ẩn núp, sức mạnh của giấc mơ biến đổi nó thành cây tảo biển nặng nề, ướt át, và tôi cố di chuyển tới chỗ làn nước sáng hơn ở phía trên. Ngay khi tôi đang làm thế thì có thứ gì đó tóm lấy mắt cá chân và kéo tôi xuống sâu hơn.

Như mỗi lần gặp ác mộng, tôi giật mình tỉnh dậy rồi bắt đầu tìm kiếm xem ai đã tóm lấy mình. Vài phút trôi qua, tôi nằm đó, mất hết phương hướng, cơ thể ướt đẫm mồ hôi và nghe tiếng tim đập ngắt nhịp dội lại qua lồng ngực. Thận trọng, tôi ngồi dậy.

Một gương mặt trắng toát đang nhìn tôi chằm chằm từ cửa kính tối om, hai mắt hõm sâu.

Quá muộn tôi mới nhận ra đó chỉ là hình ảnh mình phản chiếu trong tấm kính. Tôi vừa vặn vào kịp phòng tắm trước khi cơn buồn nôn trào lên. Thế rồi tôi mất đến ba mươi phút khổ sở khom mình trên bồn cầu dưới sàn nhà lạnh ngắt, đổ lỗi cho Matthew Clairmont và những sinh vật khác người kia. Cuối cùng tôi cũng bò được về giường và ngủ thêm vài tiếng nữa. Tinh mơ hôm đó, tôi lê mình vào chỗ để bộ đồ chèo thuyền.

Khi tôi đến chỗ chòi gác, người gác cửa nhìn tôi vẻ kinh ngạc. "Cô không định đi ra đó trong sương mù vào giờ này chứ, tiến sĩ Bishop? Cô trông như cây nến đã cháy cạn đến tận cùng rồi ý, nếu cô không phiền tôi nói thế. Nằm nghỉ ngơi không phải là một ý tưởng tốt hơn à? Ngày mai con sông vẫn ở đó chứ có chạy đi đâu mất đâu?"

Sau khi cân nhắc lời khuyên của Fred, tôi lắc đầu. "Không, tôi sẽ thấy khỏe hơn nếu ra đấy." Ông ta nhìn tôi vẻ nghi ngại. "Với lại tuần này các sinh viên cũng trở lại rồi."

Mặt đường trơn trượt đầy hơi nước nên tôi chạy chậm hơn bình thường để xem xét thời tiết cũng như sự mệt mỏi của mình trước khi ra quyết định. Lộ trình quen thuộc đưa tôi đi ngang qua trường Oriel và tới cánh cổng sắt đen cao lớn nằm giữa Merton và Corpus Christi. Chúng bị khóa từ khi trời nhá nhem tối cho tới lúc bình minh để ngăn không cho mọi người đi ra ngoài bãi cỏ tiếp giáp với dòng sông, nhưng điều đầu tiên bạn học được khi chơi chèo thuyền ở Oxford là làm thế nào để leo qua đó. Tôi trèo qua mấy cánh cổng ngon ơ.

Một nghi thức quen thuộc nữa là đưa con thuyền xuống nước. Cho tới lúc con thuyền lướt ra xa khỏi cầu tàu và đi vào sương mù huyền ảo, tôi hầu như đã cảm thấy bình thường.

Khi có sương mù, chèo thuyền càng làm ta thấy giống như đang bay hơn. Bầu không khí bóp nghẹt các âm thanh thông thường của chim muông, của xe cộ, nhưng lại khuếch đại hơn tiếng khỏa nước nhẹ nhàng của hai mái chèo và tiếng cọt kẹt từ chỗ ngồi trên con thuyền. Không có đường bờ sông và các mốc ven bờ quen thuộc để định hướng cho bạn, chẳng có gì để chỉ dẫn bạn ngoài chính bản năng của của mình.

Tôi đắm mình vào nhịp điệu đung đưa, thư thái, thính giác và thị giác của tôi nắm bắt lấy sự thay đổi nhẹ nhất trong tiếng mái chèo, nó báo cho tôi biết rằng tôi đang đến gần bờ quá hay một cái bóng sẽ báo hiệu sự tiếp cận của một con thuyền khác. Sương mù quá dày đến nỗi tôi đã nghĩ đến việc quay trở lại, nhưng viễn cảnh về một dòng sông thẳng tắp, trải dài thật lôi cuốn vô cùng.

Vừa đến chỗ quán rượu, tôi thận trọng rẽ thuyền sang. Có hai tay chèo đang bơi thuyền xuôi theo dòng nước, đang mải mê tranh luận về chiến lược cạnh tranh với đối thủ hòng giành chiến thắng giải phong cách riêng của Oxford trong cuộc đua có tên "Đụng nhau."

"Các anh có muốn đi trước không?" tôi gọi to.

"Có!" tiếng đáp lại rất nhanh. Cặp vận động viên đi qua mà không hề bị lỗi nhịp sải tay chèo.

Tiếng mái chèo khua nước của họ mờ dần. Tôi quyết định chèo trở lại nhà thuyền và chấp nhận dừng cuộc dạo chơi trên sông. Chỉ là một hành trình ngắn, nhưng sự khó ở sau ba đêm liên tiếp thiếu ngủ đã đỡ đi nhiều.

Cất dụng cụ vào chỗ cũ, tôi khóa cửa nhà thuyền và dạo bước chậm rãi dọc con đường mòn hướng vào thị trấn. Thật là quá yên tĩnh trong một buổi sớm mù sương khi mà thời gian và không gian như lùi xa dần. Tôi nhắm mắt, tưởng tượng mình không ở đâu cả - không phải Oxford, cũng không ở bất cứ nơi nào trên trái đất này.

Khi tôi mở mắt ra, một hình thù màu đen đã chồm tới trước mặt tôi. Tôi giật mình và thở hổn hển sợ hãi. Hình hài đó hướng về phía tôi và hai tay tôi theo bản năng giơ ra gạt tránh sự nguy hiểm.

"Diana, tôi xin lỗi. Tôi tưởng cô đã trông thấy tôi rồi." Đó là Matthew Clairmont, khuôn mặt hắn nhăn lại vẻ lo lắng.

"Tôi đang nhắm mắt đi bộ mà." Tôi tóm chặt vào cổ chiếc áo len lông cừu, và hắn hơi lùi lại một chút. Tôi tựa người vào một cái cây cho tới khi hơi thở chậm trở lại.

"Cô có thể kể cho tôi nghe điều gì đó không?" Clairmont hỏi khi tim tôi đã thôi đánh trống trận.

"Nếu anh định hỏi tại sao tôi lại đi ra sông trong sương mù khi mà ma cà rồng, quỷ và phù thủy đang bám theo mình thế này, thì tôi chẳng có gì để kể với anh đâu." Tôi không muốn bị một bài thuyết giảng - không phải sáng hôm nay.

"Không." Giọng hắn có một chút cay nghiệt. "Mặc dù đó là một câu hỏi tuyệt vời đấy. Tôi định hỏi là tại sao cô lại đi dạo mà nhắm mắt cơ."

Tôi cười to. "Cái gì - anh không làm thế à?"

Matthew lắc đầu. "Ma cà rồng chỉ có năm giác quan thôi. Và chúng tôi thấy rằng tốt nhất là nên sử dụng tất cả các giác quan ấy," hắn nói vẻ nhạo báng.

"Chẳng có gì là thần thông cả, anh Matthew. Đó là trò tôi vẫn chơi từ khi còn nhỏ thôi. Nó khiến dì của tôi phát điên lên. Tôi thường đi về nhà với hai chân thâm tím và trầy xước vì đâm phải bụi rậm và cây cối."

Gã ma cà rồng tỏ vẻ đăm chiêu. Hắn đút hai tay vào túi quần màu xám đen và nhìn đăm đắm vào sương mù. Hôm nay hắn mặc một chỉếc áo len màu xanh xám làm mái tóc hắn trông tối hơn, nhưng không mặc áo khoác. Thật là một thiếu sót quá nổi bật, trong thời tiết này. Đột nhiên cảm thấy mình thật lôi thôi lếch thếch, tôi thầm ước gì cái quần bó để chèo thuyền của mình không có cái lỗ ở đằng sau bắp đùi trái vì bị mắc vào cạnh thuyền.

"Chuyến đi dạo bằng thuyền của cô sáng nay thế nào?" Cuối cùng Clairmont hỏi, như thể hắn không biết gì cả. Hắn chắc chắn không đi ra ngoài để tản bộ buổi sáng đâu.

"Tốt," tôi đáp gọn lỏn.

"Sáng sớm nay nơi đây vắng lặng nhỉ."

"Vâng, nhưng tôi thích thế khi dòng sông không đông đúc."

"Không mạo hiểm khi chèo thuyền vào thời tiết này sao, khi mà có quá ít người ra ngoài thế này?" Tiếng nói thật êm dịu, dường như hắn không còn là gã ma cà rồng theo dõi nhất động của tôi nữa, và có lẽ tôi đã đón nhận câu hỏi của hắn bằng một cố gắng trò chuyện thật vụng về.

"Mạo hiểm thế nào cơ?"

"Nếu có chuyện gì xảy ra, nhỡ không ai trông thấy thì sao?"

Trước đây tôi chưa bao giờ thấy sợ khi ở trên sông, nhưng hắn có lý. Tuy thế, tôi rũ bỏ cảm giác ấy ngay. "Các sinh viên sẽ trở về đây vào thứ Hai. Tôi đang tận hưởng khoảnh khắc thanh bình cuối cùng thôi."

"Học kỳ thật sự sẽ bắt đầu vào tuần tới à?" Clairmont nghe có vẻ thật sự ngạc nhiên.

"Anh đang giảng dạy trong khoa, đúng không?" tôi cười lớn.

"Về cơ bản là thế, nhưng tôi không thực sự gặp các sinh viên. Tôi ở đây để nghiên cứu nhiều hơn." Miệng hắn mím chặt. Gã ma cà rồng này không thích bị cười nhạo.

"Hẳn là tuyệt lắm." Tôi nghĩ đến lớp học ba trăm chỗ ngồi của mình và tất cả đều là sinh viên năm thứ nhất đầy lo âu, mong ngóng.

"Cũng khá. Trang thiết bị phòng thí nghiệm của tôi không thắc mắc về những giờ đồng hồ thuyết giảng dài dằng dặc của tôi. Và tôi có tiến sĩ Shephard cùng một trợ lý khác, tiến sĩ Whitmore, bởi vậy nên tôi không hoàn toàn cô độc."

Thời tiết ẩm, và tôi bị lạnh. Hơn nữa, có điều gì đấy không tự nhiên lắm khi trao đổi những lời nhận xét hài hước với một ma cà rồng trong tiết trời u ám đặc quánh thế này. "Tôi thật sự nên về nhà rồi."

"Cô có muốn đi nhờ không?"

Bốn ngày trước tôi sẽ không chấp nhận lời mời lên xe của một ma cà rồng, nhưng sáng hôm nay thì đó dường như là một ý tưởng thật tuyệt. Hơn nữa, nó cho tôi cơ hội để hỏi xem tại sao một nhà hóa sinh lại thấy hứng thú với một cuốn cổ thư về phép thuật từ thế kỷ mười bảy.

"Có," tôi đáp.

Cái nhìn ngượng nghịu, vui mừng của Clairmont hoàn toàn làm nguôi đi cơn giận. "Xe tôi đỗ gần đây thôi," hắn nói, ra dấu về hướng trường Christ Church. Chúng tôi bước đi trong im lặng tới vài phút, bị bao bọc trong màn sương mù xám xịt và cảm giác lạ lẫm của nỗi cô đơn, phù thủy và ma cà rồng. Matthew thong thả thu ngắn sải chân mình để đi song song với tôi, và hắn có vẻ thoải mái hơn khi ở ngoài trời, không như lúc ở trong thư viện.

"Đây là trường của anh à?"

"Không, tôi chưa bao giờ là một thành viên ở đây cả." Cách hắn diễn đạt khiến tôi băn khoăn không biết hắn đã từng là một thành viên trong những đại học thế nào. Rồi tôi bắt đầu nghĩ cuộc đời của hắn kéo dài bao lâu rồi. Đôi khi hắn dường như già nua ngang với Oxford vậy.

"Diana?" Clairmont đã dừng lại tự lúc nào.

"Hả?" Tôi đã bắt đầu nghĩ miên man và đang hướng về phía bãi đỗ xe của trường.

"Lối này cơ," Matthew nói, chỉ về hướng ngược lại.

Matthew dẫn tôi tới một khu đất nhỏ xíu có tường bao quanh. Một chiếc Jaguar màu đen đã được hạ mui đỗ ngay dưới một tấm biển màu vàng chóe đề dòng chữ TUYỆT ĐỐI KHÔNG ĐỖ XE Ở ĐÂY. Chiếc xe có một tờ giấy phép của bệnh viện John Radcliffe treo ở gương chiếu hậu.

"Tôi hiểu rồi," tôi nói, hai tay chống nạnh. "Anh đỗ xe ở bất cứ nơi nào anh muốn."

"Thông thường tôi vẫn là một công dân gương mẫu cơ, nhưng thời tiết sáng nay lại gợi ý là có lẽ nên có một sự đặc cách," Matthew chống chế. Gã ma cà rồng với cánh tay vòng qua người tôi để mở khóa cửa. Chiếc Jaguar này là một mẫu xe cổ, không có công nghệ đời mới nhất của loại chìa khóa bấm điều khiển từ xa và hệ thống định vị, nhưng nó trông như vừa mới được kéo ra khỏi sàn trưng bày. Hắn kéo cánh cửa mở ra, và tôi chui vào trong, hàng ghế bọc da màu nâu nhạt tiệp màu với bộ đồ trên thân mình tôi.

Tôi chưa bao giờ ngồi trên một chiếc xe nào xa hoa đến thế. Những nghi ngờ tồi tệ nhất của dì Sarah về ma cà rồng sẽ được khẳng định nếu dì biết họ lái những chiếc Jaguar trong khi dì phải đi một chiếc Honda Civic xập xệ đã bị gỉ sét thành màu nâu xỉn của một miếng trứng bị nướng cháy trong lò.

Clairmont cho xe lăn bánh dọc theo con đường ra tới cổng Christ Church, nơi hắn chờ đợi một khe hở để hòa vào dòng giao thông buổi sáng sớm đang bị thống trị bởi những chiếc xe tải giao hàng, xe bus và xe đạp. "Cô có muốn ăn sáng trước khi tôi đưa cô về nhà không?" Hắn ngẫu nhiên hỏi, tay vẫn kiềm chặt chiếc vô lăng bóng lộn. "Cô chắc là đã đói lắm sau bài vận động buổi sáng ấy?"

Đây là bữa ăn thứ hai Clairmont mời tôi. Đây là kiểu của ma cà rồng ư? Có phải họ thích quan sát người khác ăn không nhỉ?

Sự kết hợp của ma cà rồng và việc ăn uống làm tâm trí tôi xoay ra nghĩ tới thói quen ăn kiêng của ma cà rồng. Mọi người trên hành tinh này đều biết rằng ma cà rồng uống máu người. Nhưng đó có phải là tất cả những gì họ ăn không? Không còn dám chắc chắn rằng việc ngồi trong một chiếc xe lái đi loanh quanh với một ma cà rồng là ý tưởng hay, tôi kéo cao khóa chiếc áo lông cừu cổ lọ và nhích sát ra phía cửa thêm hai phân nữa

"Diana?" Matthew giục.

"Tôi có thể ăn," tôi do dự nhận lời, "và tôi sẽ giết người để có một tách trà đấy."

Hắn gật đầu, đưa mắt trở lại con đường. "Tôi biết một nơi."

Clairmont lái xe lên đồi và rẽ ngay xuống High Street. Chúng tôi đi ngang qua tượng đài vợ vua George II đứng dưới mái vòm trường Queen, rồi hướng về phía vườn thực vật của Oxford. Sự im lặng trong chiếc ô tô càng khiến cho Oxford trông có dáng vẻ một thế giới khác hơn bình thường, những đường xoáy ốc và tháp canh hiện ra đột ngột bên ngoài sự tĩnh lặng và sương mù mờ ảo.

Chúng tôi không nói chuyện, và sự yên lặng của hắn làm tôi nhận ra là mình đã dịch chuyển, chớp mắt liên tục, hít thở và chỉnh lại tư thế ngồi nhiều đến thế nào. Không phải Clairmont. Hắn chưa bao giờ chớp mắt và hiếm khi thở, mỗi cú xoay vô lăng hay nhấn ga của anh đều nhẹ nhàng nhất và hiệu quả cao nhất, cứ như thể cuộc đời dài dằng dặc đòi hỏi hắn cần phải giữ gìn và bảo tồn năng lượng của bản thân. Tôi lại thắc mắc không biết Matthew Clairmont đã bao nhiêu tuổi.

Gã ma cà rồng phóng xuống lề một con phố, thắng phanh trước một quán cà phê bé tí xíu chật cứng toàn dân địa phương đang ngốn ngấu ăn vội những đĩa thức ăn. Một vài người đang đọc báo, những người khác thì đang tán gẫu với mấy người hàng xóm ngồi bàn kế bên. Tất cả bọn họ, tôi để ý với cảm giác thích thú, đều đang uống những cốc trà to tướng.

"Tôi không biết chỗ này đấy," tôi nói.

"Đó là một thông tin được bảo mật," hắn ranh mãnh đáp. "Họ không muốn dân trường đại học phá hủy bầu không khí này."

Tôi tự động quay ra mở cửa xe, nhưng trước khi tôi chạm vào tay cầm, Clairmont đã ở đó và mở nó ra cho tôi.

"Làm thế nào mà anh đến đằng này nhanh thế?" Tôi làu bầu.

"Phép thuật," hắn trả lời qua hai vành môi bĩu lên. Hình như, Clairmont không chấp nhận để phụ nữ tự mở cửa xe chẳng kém gì việc hắn chấp nhận cho phụ nữ tranh cãi với mình.

"Tôi có khả năng tự mở cửa cho mình," tôi vừa nói vừa trèo ra khỏi xe.

"Tai sao phụ nữ ngày nay nghĩ việc tự mở cửa quan trọng thế nhỉ?" Hắn lảnh lót nói. "Cô có tin đó là một bằng chứng rõ ràng cho sức mạnh thể chất của mình không?"

"Không, nhưng nó là dấu hiệu thể hiện sự độc lập của chúng tôi." Tôi đứng khoanh tay trước ngực, thách thức hắn cãi lại tôi và nhớ ra chuyện Chris đã nói về cách cư xử của Clairmont với một người phụ nữ đã hỏi quá nhiều trong một cuộc hội thảo.

Không nói lời nào, hắn đóng cánh cửa xe sau lưng tôi và mở cánh cửa quán cà phê. Tôi kiên quyết đứng tại chỗ, đợi cho hắn bước vào. Một làn gió ấm áp tràn ra, không khí ẩm mang theo mùi thơm của thịt lợn muối béo ngậy và bánh mỳ nướng. Miệng tôi bắt đầu ứa nước miếng.

"Anh không thể cổ hủ thế được," tôi vừa nói vừa thở dài, quyết định không tranh đấu nữa. Hắn có thể mở cửa cho tôi sáng hôm nay, miễn là hắn sẵn sàng mua một bữa sáng nóng hổi cho tôi.

"Sau cô thôi," gã ma cà rồng lẩm bẩm đáp.

Trong quán, chúng tôi đi qua các bàn chật ních người. Da Clairmont, vốn trông gần như bình thường lúc ở ngoài trời sương mù, giờ lộ rõ màu tái nhợt dưới ánh đèn ảm đạm của quán. Một cặp đôi là con người nhìn chằm chằm khi chúng tôi đi qua. Ma cà rồng thấy rõ.

Đây không phải là một ý tưởng hay ho, tôi khó chịu nghĩ khi càng lúc càng có nhiều ánh mắt con người soi xét chúng tôi

"Xin chào Matthew," một giọng phụ nữ vui vẻ cất lên từ sau quầy. "Hai người ăn sáng hả?"

Gương mặt anh chàng sáng hẳn lên. "Hai suất nhé, Mary. Dan thế nào?"

"Đủ khỏe để phàn nàn rằng anh ấy đã chán ngấy phải nằm trên giường rồi. Chắc chắn anh ấy sẽ bình phục."

"Quả là một tin tuyệt vời," Clairmont nói. "Cô có thể cho quý cô đây một chút trà khi cô rảnh được không? Cô ấy đã đe dọa sẽ giết người vì nó đấy."

"Không cần phải thế đâu, bạn yêu quý," Mary cười bảo tôi. "Chúng tôi phục vụ trà mà không cần phải đổ máu đâu." Người phụ nữ thận trọng di chuyển thân hình phốp pháp của mình ra khỏi cái quầy bằng formica và dẫn chúng tôi tới một cái bàn nằm ở góc xa kế bên cánh cửa nhà bếp. Hai tấm thực đơn bọc nhựa được đặt lên bàn đánh cạch một tiếng. "Anh sẽ được đặc cách ở đây Matthew ạ. Tôi sẽ cho Steph đưa trà đến. Cứ ở đây bao lâu tùy ý."

Clairmont chủ động sắp xếp cho tôi ngồi dựa lưng vào tường. Hắn ngồi đối diện, chắn giữa tôi và phần còn lại của quán, uốn cong tờ thực đơn thành một cái ống và để nó nhẹ nhàng trải trở ra trên mấy ngón tay mình, hiển nhiên là đang nổi giận rồi. Trước sự hiện diện của những kẻ khác, gã ma cà rồng này luôn bồn chồn không yên và dễ cáu giận, giống như lúc hắn ở trong thư viện. Hắn thấy dễ chịu hơn khi hai chúng tôi ở riêng với nhau.

Tôi nhận ra ý nghĩa của thái độ này và biết ơn kiến thức mới của mình về sói Na Uy. Hắn đang bảo vệ tôi.

"Anh nghĩ ai có vẻ là nguy cơ đe dọa, hả Matthew? Tôi đã bảo anh là tôi có thể tự chăm lo cho bản thân mình mà." Giọng tôi cất lên hơi ít vẻ gay gắt hơn là dự định.

"Phải, tôi chắc là cô có thể," hắn nói vẻ hồ nghi.

"Xem này," tôi nói, cố gắng giữ cho giọng mình bình thản, "anh đã tìm cách ngăn... họ tránh xa khỏi tôi bởi vậy mà tôi có thể hoàn thành một số việc." Các bàn quá gần nhau nên tôi không thể nêu cụ thể bất cứ chi tiết nào. "Tôi biết ơn vì điều đó. Nhưng đây là quán cà phê đầy những con người. Mối nguy hiểm duy nhất hiện giờ đến từ việc anh đang lôi kéo sự chú ý của họ mà thôi. Anh chính thức hết nhiệm vụ rồi."

Clairmont hất đầu về phía quầy tính tiền. "Gã đàn ông ở đằng kia nói với bạn hắn rằng cô trông 'ngon lành'." Gã ma cà rồng đang cố gắng nhấn mạnh điều hắn nói, nhưng khuôn mặt hắn tối sầm. Tôi nín cười.

"Tôi không nghĩ hắn sắp cắn tôi đâu," tôi nói.

Làn da gã ma cà rồng đổi màu xanh xám.

"Từ những gì tôi hiểu về tiếng Anh lóng hiện đại thì 'ngon lành' là một lời khen, chứ không phải là đe dọa."

Clairmont tiếp tục quắc mắt nhìn.

"Nếu anh không thích những gì đang nghe thấy, thì đừng có lắng nghe các cuộc chuyện trò của người khác nữa," tôi đề nghị, mất kiên nhẫn với điệu bộ tỏ vẻ nam tính của hắn.

"Nói thì dễ hơn làm," hắn phát biểu, cầm một chai Marmite lên.

Một phiên bản trẻ trung hơn, mảnh mai hơn của Mary xuất hiện cùng với một ấm trà bằng gốm nâu khổng lồ và hai cái cốc vại. "Sữa và đường ở trên bàn nhé, Matthew," cô ta nói, đưa mắt tò mò nhìn tôi.

Matthew thực hiện những thủ tục giới thiệu cần thiết. "Steph, đây là Diana. Cô ấy từ Mỹ đến và đang thăm thú nơi này."

"Thật à? Cô có sống ở California không? Tôi thèm được đến California chết được."

"Không, tôi sống ở Connecticut," tôi nói vẻ tiếc nuối.

"Đó là một trong những bang nhỏ phải không?" Steph thất vọng thấy rõ.

"Phải. Và nó đầy tuyết."

"Tôi thích những cây cọ và ánh mặt trời cơ." Vừa đả động đến tuyết, cô ta đã hoàn toàn mất hứng thú với tôi. "Nó sẽ thế nào nhỉ?"

"Tôi thật sự đang rất đói rồi," tôi nói vẻ xin lỗi, rồi gọi hai trứng bác, bốn miếng bánh mỳ, và vài lát thịt lợn muối xông khói.

Steph, rõ ràng là người có vấn đề ở tai, cô ta viết yêu cầu gọi món mà chẳng bình luận gì, rồi thu lại thực đơn của chúng tôi. "Chỉ trà thôi hả Matthew?"

Hắn gật đầu.

Khi Steph đã ra khỏi tầm nghe, tôi nghiêng người tới trước. "Họ có biết về anh không?"

Clairmont cũng ngả người tới trước, mặt hắn chỉ cách mặt tôi đúng hai mươi phân. Sáng nay hắn có mùi hương ngọt ngào hơn, giống như hương hoa cẩm chướng tươi. Tôi hít vào thật sâu.

"Họ biết là tôi hơi khác người. Mary có lẽ nghi ngờ tôi còn hơn cả khác người nữa, nhưng bà ấy tin rằng tôi đã cứu sống Dan, vậy nên bà ấy quyết định rằng điều đó không thành vấn đề.

"Anh đã cứu chồng bà ấy như thế nào?" Ma cà rồng được cho là cướp đi mạng sống của con người, chứ không phải cứu người.

"Tôi thấy ông ta cứ bị chuyển qua chuyển lại ở Radcliffe trong khi bệnh viện lại đang thiếu bác sỹ. Mary đã xem một chương trình miêu tả những triệu chứng của chứng đột quỵ, và bà ấy nhận ra các dấu hiệu đó khi chồng mình bắt đầu vật vã. Không có bà ấy, ông ta có lẽ đã chết hoặc bị liệt hoàn toàn rồi."

"Nhưng bà ấy nghĩ là chính anh đã cứu Dan mà?" vẻ bảnh bao của gã ma cà rồng này đạng khiến tôi choáng váng. Tôi nhấc nắp ấm trà để thay thế mùi hương cẩm chướng bằng mùi thơm của trà đen.

"Mary cứu ông ấy trước, nhưng sau đó ông ấy nhập viện và có phản ứng khủng khiếp với thuốc đều trị. Tôi đã kể với cô rằng Mary là người tinh mắt chưa nhỉ? Khi bà ấy đem những lo lắng của mình tới gặp một trong các bác sĩ, ông ta đã gạt sang một bên. Tôi... nghe lỏm được - và can thiệp."

"Anh có thường gặp các bệnh nhân không?" Tôi rót cho mỗi người một cốc trà lớn nghi ngút khói và đặc tới mức có thể cho cả một cái thìa dựng đứng trong đó được. Hai bàn tay tôi khẽ run lên trước ý nghĩ một ma cà rồng đang đi lảng vảng ở John Radcliffe giữa những người bệnh và người bị thương.

"Không," hắn đáp, nghịch ngợm lọ đường, "chỉ khi nào họ có ca cấp cứu thôi."

Đẩy một cốc trà về phía Matthew; tôi đưa mắt nhìn lọ đường. Hắn đưa nó cho tôi. Tôi lấy chính xác nửa thìa cà phê đường và nửa chén sữa cho vào trà của mình. Đây chỉ là ý thích thôi - đen như hắc ín, dấu vết của đường cắt vào vị đắng ngắt, rồi một lượng sữa vừa đủ để làm cho nó trông đỡ giống một cái ao cá. Cuối cùng, tôi khuấy món đồ uống đã được pha chế đó theo chiều kim đồng hồ. Ngay khi kinh nghiệm cho tôi biết nó sẽ không làm tôi bỏng rát lưỡi được nữa, tôi bắt đầu nhấp một ngụm. Hoàn hảo.

Gã ma cà rồng đang tủm tỉm cười.

"Gì thế?" Tôi hỏi

"Tôi chưa bao giờ thấy có ai thưởng thức trà với thái độ chăm chút đến từng chi tiết như thế."

"Hẳn là anh đã không dành nhiều thì giờ với những người uống trà nghiêm túc rồi. Vấn đề ở chỗ cần đo được độ đậm đặc trước khi anh cho đường và sữa vào." Cốc trà tỏa khói nghi ngút chưa được động tới vẫn ở trước mặt hắn. "Tôi hiểu rồi, anh thích trà đặc."

"Trà không hẳn là món giải khát của tôi," Clairmont nói, lời giãi bày của hắn hơi chùng xuống.

"Đồ uống của anh là gì?" Ngay phút câu hỏi được thốt ra khỏi miệng, tôi ước gì mình có thể rút nó lại. Tâm trạng hắn chuyển từ vui vẻ thích thú sang bặm môi giận dữ.

"Cô còn phải hỏi sao?" Hắn gay gắt nói nói. "Thậm chí cả con người cũng biết câu trả lời cho câu hỏi đó."

"Tôi xin lỗi. Tôi không nên hỏi." Tôi ghì chặt cái cốc, cố giữ mình bình tĩnh.

"Cô không nên."

Tôi im lặng uống trà. Cả hai cùng ngẩng lên khi Steph đến với chiếc giỏ đựng đầy bánh mỳ nướng và một đĩa chất có ngọn trứng với thịt lợn xông khói.

"Mẹ tôi nghĩ là cô cần món rau," Steph giải thích khi mắt tôi mở lớn trước một ụ nấm và khoai tây chiên đi kèm theo bữa sáng. "Bà nói trông cô như người chết ấy."

"Cảm ơn hai người!" tôi nói. Bài phê bình của Mary về ngoại hình chẳng làm giảm đi niềm cảm kích của tôi trước bữa ăn hoành tráng.

Steph toét miệng cười, Clairmont tặng tôi một cái nhếch môi khi tôi cầm dĩa lên và cho phép mình đánh chén.

Mọi thứ đều nóng sốt và thơm phưng phức, vừa chín giòn trên bề mặt vừa mềm tan ở bên trong. Cơn đói nguôi dần, tôi bắt đầu tấn công bài bản vào giỏ bánh mỳ nướng, nhặt miếng bánh hình tam giác nguội ngắt đầu tiên lên và phết bơ lên bề mặt. Gã ma cà rồng quan sát tôi ăn cùng với vẻ chú tâm sâu sắc như khi hắn ngắm tôi chế biến món trà của mình.

"Vậy tại sao là khoa học?" Tôi đánh bạo hỏi, đút miếng bánh mỳ vào miệng, thế là hắn phải trả lời.

"Tại sao lại là lịch sử?" Giọng hắn cộc lốc, nhưng hắn sẽ không né tránh được tôi dễ dàng đâu.

"Anh trước."

"Tôi cho rằng tôi cần biết vì sao mình lại ở đây," Clairmont nói, dán mắt xuống bàn. Hắn đang dùng lọ đường làm lâu đài và lấy những gói đường màu xanh để xây thành một con hào bao quanh.

Tôi đông cứng người trước sự giống nhau giữa lời giải thích của hắn và những gì Agatha đã kể cho tôi ngày hôm trước về Ashmole 782. "Câu hỏi đó dành cho các triết gia, không phải khoa học gia." Tôi mút một giọt bơ trên ngón tay mình để giấu đi vẻ bối rối.

Đôi mắt hắn ánh lên một cơn sóng giận dữ đột ngột khác. "Cô thật sự không tin thế chứ - rằng các nhà khoa học không quan tâm tới lý đo tại sao?"

"Họ từng quan tâm tới các lý do tại sao," tôi thừa nhận, liếc mắt dè chừng. Sự biến đổi tâm trạng đột ngột của hắn đích thực là khủng khiếp. "Nhưng giờ thì dường như họ chỉ còn quan tâm đến câu hỏi làm thế nào - làm thế nào mà cơ thể hoạt động, làm thế nào mà các hành tinh chuyển động..."

Clairmont khịt mũi tỏ vẻ khinh .thường. "Đó không phải những nhà khoa học chân chính." Mấy người sau lưng hắn đứng dậy để đi, Matthew căng thẳng đề phòng nếu bọn họ quyết định xô cái bàn.

"Và anh là một nhà khoa học chân chính."

Hắn bỏ qua câu đánh giá của tôi không bình luận gì.

"Một hôm nào đó anh sẽ phải giải thích cho tôi về mối liên hệ giữa thần kinh học, nghiên cứu DNA, hành vi động vật, và sự tiến hóa. Chúng rõ ràng là chẳng ăn nhập gì với nhau." Tôi cắn một miếng bánh mỳ nữa.

Lông mày trái của Clairmont rướn lên. "Cô đang điều tra tôi qua các bài báo khoa học!" hắn sắc sảo nói.

Tôi nhún vai. "Anh đã chiếm ưu thế không công bằng. Anh biết tất cả về công việc của tôi. Tôi chỉ đang san bằng thế trận thôi."

Hắn lầm bầm điều gì đó nghe như là tiếng Pháp. "Tôi có rất nhiều thời gian để suy nghĩ," hắn đáp lại thẳng thừng bằng tiếng Anh, mở rộng hơn nữa con hào bao quanh lâu đài của mình bằng một vòng tròn những gói đường khác. "Chẳng có sự liên hệ nào giữa chúng cả."

"Nói dối," tôi khẽ phản bác.

Không ngạc nhiên, lời buộc tội của tôi khiến Clairmont nổi đóa, nhưng tốc độ biến đổi tâm trạng đó vẫn khiến tôi sửng sốt. Nó là một lời nhắc nhở rằng tôi đang dùng bữa sáng với một sinh vật có thể làm chết người được.

"Thế thì nói cho tôi biết mối liên hệ đó đi," hắn nói qua kẽ răng.

"Tôi không chắc nữa," tôi thành thật trả lời. "Có thứ gì đó đang liên kết chúng lại với nhau, nó dẫn đến niềm hứng thú nghiên cứu của anh và khiến chúng có ý nghĩa. Cũng có thể anh là một kẻ trí thức khoác lác, nhưng điều này thật nực cười - cứ nhìn vào những việc anh làm được đánh giá cao đến mức nào thì biết - hoặc có thể anh dễ chán nản, nhưng anh có vẻ không phải là tuýp người có thể chán những gì liên quan đến tri thức và trí tuệ. Thực tế ngược lại."

Clairmont ngắm tôi cho tới khi sự im lặng trở nên khó chịu. Dạ dày tôi đang bắt đầu than phiền về lượng thức ăn mà tôi mong muốn nó hấp thụ. Tôi rót tách trà mới và pha thêm các thứ vào trong khi chờ hắn mở lời.

"Cô cũng là một phù thủy tinh ý đấy." Ánh mắt gã ma cà rồng thể hiện một sự thán phục miễn cưỡng.

"Ma cà rồng không phải là sinh vật duy nhất biết đi săn, Matthew ạ."

"Đúng. Tất cả chúng ta đều săn lùng một thứ gì đó, đúng không Diana?" Hắn kéo dài và nhấn giọng ở cái tên của tôi. "Giờ thì đến lượt tôi. Tại sao là lịch sử?"

"Anh đâu có trả lời tất cả các câu hỏi của tôi!" Và tôi vẫn còn chưa hỏi hắn câu hỏi quan trọng nhất.

Matthew lắc đầu cương quyết, tôi bèn chuyển hướng hoạt động của mình từ việc săn tìm thông tin sang bảo vệ bản thân khỏi những nỗ lực thâu tóm thông tin của hắn.

"Đầu tiên là sự gọn ghẽ của nó, tôi cho là thế." Giọng tôi nghe có vẻ ngập ngừng đến không ngờ. "Quá khứ dường như quá dễ đoán định, như thể chẳng có gì xảy ra ở đó khiến ta phải kinh ngạc cả."

"Nói cứ như một kẻ không có mặt ở nơi đó ấy nhỉ," gã ma cà rồng nói cộc lốc.

Tôi cười khan. "Tôi khám phá ra điều đó cũng khá sớm. Nhưng ban đầu dường như nó đã như thế. Ở Oxford các giáo sư làm cho quá khứ trở thành một câu chuyện gọn gàng có mở đầu, thân bài và kết thúc. Mọi thứ dường như đều hợp lý và hiển nhiên. Những câu chuyện của họ lôi kéo tôi, chính là nó. Chẳng có đề tài nào khác làm tôi hứng thú. Tôi bắt đầu trở thành nhà sử học và chưa bao giờ hối hận."

"Ngay cả khi cô khám phá ra rằng sự tồn tại của loài người – cả trong quá khứ hay trong hiện tại - đều không có logic ư?"

"Lịch sử chỉ trở nên thách thức hơn khi nó ít gọn gàng hơn thôi. Mỗi khi tôi cầm một cuốn sách hay một tài liệu của quá khứ lên, tôi lại bước vào trận chiến với những con người sống cách đây hàng trăm năm. Họ có những bí mật và những nỗi ám ảnh riêng - tất cả những thứ đó họ sẽ tiết lộ hoặc không bao giờ tiết lộ ra. Công việc của tôi là khám phá và lý giải những điều đó."

"Thế nếu cô không thể thì sao? Nếu họ từ chối lý giải thì sao?"

"Điều đó không bao giờ xảy ra," tôi nói sau khi suy xét kỹ câu hỏi của Matthew. "Ít nhất tôi không nghĩ có chuyện ấy. Anh chỉ cần biết lắng nghe. Không một ai thật sự muốn giữ những bí mật cả, ngay cả người chết cũng thế. Con người ta để lại manh mối ở khắp nơi, và nếu chú ý, anh có thể ráp chúng lại với nhau."

"Vậy cô là một nhà sử học đồng thời là một thám tử," hắn nhận xét.

"Đúng vậy. Với mức đặt cọc rất thấp." Tôi ngồi thẳng lại trên ghế, nghĩ rằng cuộc phỏng vấn đã kết thúc.

"Thế thì tại sao lại là lịch sử của khoa học?" Hắn tiếp tục.

"Thử thách của những trí tuệ vĩ đại, tôi cho là thế!" Tôi cố gắng để nghe không có vẻ liến thoắng, đồng thời cố cao giọng ở cuối câu, nhưng thất bại ở cả hai ý định.

Clairmont cúi đầu xuống và bắt đầu từ từ tháo dỡ lâu đài có hào bao quanh.

Linh cảm mách bảo tôi tiếp tục im lặng, nhưng chuỗi mắt xích những bí mật của tôi đã bắt đầu bị nới lỏng. "Tôi muốn biết làm thế nào con người quyết định được về những gì thấy được trong cái thế giới có quá ít phép màu nhiệm này," tôi bất ngờ nói thêm. "Tôi cần phải hiểu làm thế nào mà họ thuyết phục được bản thân tin rằng phép thuật không quan trọng."

Đôi mắt màu xám lạnh lùng của gã ma cà rồng ngước lên nhìn vào mắt tôi. "Cô đã tìm thấy chưa?"

"Rồi và chưa." Tôi ngập ngừng. "Tôi đã thấy tính logic mà họ sử dụng, niềm tin rằng thế giới này là một nơi đầy quyền năng và phép thuật không thể lý giải nổi đã dần bị bào mòn đi bởi tính logic của khoa học thực nghiệm. Dù vậy cuối cùng họ đã thất bại. Phép thuật chưa bao giờ thật sự biến mất. Nó vẫn đợi chờ trong lặng lẽ, đợi con người quay trở lại với nó khi họ đã tìm thấy được điều khoa học mong muốn."

"Vì vậy nên đó là thuật giả kim," hắn nói.

"Không," tôi quả quyết. "Thuật giả kim là một trong những hình dạng sơ khai của khoa học thực nghiệm."

"Có thể. Nhưng cô không tin rẳng thuật giả kim chẳng có tí phép thuật nào." Giọng Matthew chắc nịch. "Tôi đã đọc công trình của cô. Không hề, ngay cả khi cô có thể hoàn toàn giấu nhẹm suy nghĩ đó đi."

"Vậy thì nó là thứ khoa học kèm theo phép thuật. Hoặc phép thuật có tính khoa học, nếu anh thích thế hơn."

"Cô thích cái nào hơn?"

"Tôi không chắc nữa," tôi đáp chống chế.

"Cảm ơn cô." Cái nhìn của Clairmont nói lên rằng hắn biết tôi thấy khó khăn tới mức nào khi nói về chuyện này.

"Có gì đâu. Tôi nghĩ thế." Tôi gạt tóc ra khỏi mắt, cảm thấy đôi chút xao động. "Tôi có thể hỏi anh một chuyện khác không?" Ánh mắt cảnh giác, nhưng hắn vẫn gật đầu. "Tại sao anh lại hứng thú với công trình của tôi về thuật giả kim ấy?"

Matthew gần như không trả lời, hắn đã định gạt câu hỏi này sang một bên, thế rồi lại cân nhắc. Tôi đã cho hắn biết một bí mật. Giờ thì đến lượt hắn.

"Những nhà giả kim cũng muốn biết tại sao chúng ta có mặt ở đây." Clairmont đang nói thật - tôi có thể thấy điều đó - nhưng nó không giúp tôi lý giải được tại sao hắn lại quan tâm tới Ashmole 782. Hắn liếc nhìn đồng hồ đeo tay. "Nếu cô đã ăn xong, tôi nên đưa cô về trường thôi. Cô chắc là muốn mặc thêm quần áo ấm trước khi tới thư viện."

"Tôi chỉ muốn tắm một cái." Tôi đứng dậy và vươn người, vặn cổ làm thư giãn sau khi ngồi lâu một tư thế. "Tôi phải tới lớp yoga tối nay thôi. Tôi ngồi làm việc bàn giấy quá nhiều rồi."

Mắt gã ma cà rồng lấp lánh tia sáng. "Cô tập yoga à?"

"Không thể sống được nếu thiếu nó," tôi đáp. "Tôi thích vận động và tĩnh tâm."

"Không ngạc nhiên," hắn nói. "Cách cô chèo thuyền đó chính là sự kết hợp giữa vận động và tĩnh tâm."

Hai má tôi ửng hổng. Hắn đã quan sát tôi tỉ mỉ cả trên sông lẫn trong thư viện.

Clairmont đặt một tờ hai mươi bảng lên bàn và vẫy tay chào Mary. Bà vẫy tay đáp lại, rồi gã ma cà rồng khẽ chạm vào khuỷu tay tôi, hướng tôi đi qua giữa các bàn và vài vị khách còn lại trong quán.

"Cô học yoga với ai?" Hắn hỏi sau khi mở cửa ô tô và để tôi ngồi an vị bên trong.

"Tôi tới một phòng tập ở High Street. Chỗ đó không có giáo viên mà tôi thích, nhưng phòng tập ấy gần, và ăn mày thì không nên đòi xôi gấc." New Haven có vài phòng tập yoga, nhưng Oxford thì tụt hậu ở khoản này.

Clairmont ngồi vào xe, xoay chìa khóa, và quay xe trở ra đường đi một cách gọn ghẽ trước khi hướng trở về thị trấn.

"Cô sẽ không tìm được lớp học mình cần ở đó đâu," hắn khẳng định.

"Anh cũng tập yoga à?" tôi bị mê hoặc trước hình ảnh tưởng tượng thân hình vạm vỡ của hắn đang vặn xoắn lại lúc luyện tập.

"Cũng thi thoảng," hắn nói. "Nếu cô muốn tới lớp yoga với tôi vào ngày mai, tôi có thể đón cô bên ngoài Hertford lúc sáu giờ. Tối nay cô đành phải đương đầu với phòng tập trong thị trấn thôi, nhưng ngày mai cô sẽ có một buổi tập tuyệt vời đấy."

"Phòng tập của anh ở đâu? Tôi sẽ gọi điện để xem họ có lớp tập tối nay không."

Clairmont lắc đầu. "Họ không mở cửa tối nay. Chỉ có tối thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và Chủ nhật thôi."

"Ồ," tôi thốt lên thất vọng. "Lớp học đó thế nào?"

"Cô sẽ thấy. Rất khó miêu tả." Hắn đang cố nín cười.

Trước sự ngạc nhiên của tôi, chúng tôi đã về đến chòi gác. Ông Fred thò cổ ra để xem ai đang chạy xe vào trong cổng, và thấy một biển số của bệnh viện Radcliffe, ông ta bèn bước ra xem có chuyện gì.

Clairmont để tôi xuống xe. Ở bên ngoài, tôi vẫy tay chào Fred và chìa tay ra. "Tôi đã được thưởng thức một bữa sáng rất ngon. Cảm ơn về món trà và đã đi cùng tôi."

"Bất cứ lúc nào," hắn đáp. "Tôi sẽ gặp cô ở thư viện."

Fred huýt sáo khi Clairmont phóng đi. "Xe đẹp lắm, tiến sĩ Bishop. Bạn của cô à?" Công việc của ông ta là biết nhiều nhất có thể những chuyện xảy ra trong trường nhằm giữ an ninh trật tự cũng như để thỏa mãn thói tò mò không chịu được, đó là một phần trong bản mô tả công việc của một người gác cửa.

"Tôi cho là vậy," tôi đăm chiêu đáp.

Về phòng, tôi lôi hộp đựng hộ chiếu ra và lấy tờ mười đôla ra khỏi chỗ cất giữ tiền đô Mỹ. Phải mất tới mấy phút tôi mới tìm được một cái phong bì. Sau khi nhét tờ đô la vào trong mà chẳng viết lời nhắn nào, tôi đề địa chỉ gửi Chris, và viết dòng chữ "THU ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG" in hoa ở phía trước, rồi kẹp bưu phí cần thiết vào góc phía trên.

Chris sẽ không bao giờ để tôi quên anh ta đã thắng lần cá cược này. Không bao giờ.